Tr.Chiến Tết Mậu Thân 3,4,5

mauthan

(Phần 3)

Khi quyết định mở một cuộc tổng tấn công trên lãnh thổ miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân 1968, Bắc Việt đã có những nhận định sau đây:

Nhận Định Thứ Nhất : Hà Nội tin tưởng người dân Miền Nam đã muốn ngã theo chính quyền Hà Nội cùng đường lối cách mạng của họ. Sự tin tưởng này được nhìn qua các phong trào “nhân dân cứu quốc,” phong trào tranh đấu của Phật Giáo tại miền Trung và ở thủ đô Saigon, và các sự phân tán của các đoàn thể tại Miền Nam Việt Nam. Họ cho rằng nhân dân miền Nam ghét Mỹ, chán chiến tranh. Và nếu có một động cơ nào đó thúc đẩy thì người dân Miền Nam sẽ nổi dậy chống Mỹ và lật đổ chính quyền hiện Quốc Gia.

Nhận Định Thứ Hai: Sau cuộc đảo chánh lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm, Hà Nội cho rằng chính quyền miền Nam Việt Nam đã hoàn toàn suy yếu. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng yếu kém đi và không có khả năng tấn công cũng như phòng thủ.

Nhận Định Thứ Ba: Bắc Việt tin tưởng rằng các lực lượng võ trang của họ vẫn giữ được thế chủ động chiến trường (tại miền Nam) trong các năm 1966-67 và cho rằng nếu mở trận tổng công kích vào đầu năm 1968 thì họ sẽ có hai thời cơ chiến lược và một thời cơ chiến thuật để bảo đảm cho sự tất thắng của họ.

Thời Cơ Chiến Lược 1: Bắc Việt cho rằng cuối năm 1968, Hoa Kỳ có cuộc bầu cử Tổng Thống mà hiện nay (đầu năm 1968) đang diễn ra cuộc vận động tranh cử có các ứng viên như các ông Robert Kennedy và Richard Nixon đang chỉ trích chánh sách chiến tranh của đương kim tổng thống Lyndon Johnson. Ngoài ra, ở Mỹ đang có phong trào chống đối chiến tranh tại Việt Nam và đang lan rộng trên toàn quốc. Bắc Việt dự tính nếu cuộc tổng công kích thành công, và một chính-phủ liên-hiệp được thành lập, thì Tổng Thống Johnson (sắp hết nhiệm kỳ) sẽ gặp khó khăn trong việc tăng viện binh sĩ sang Việt Nam. Vì vậy, có thể Hoa Kỳ sẽ phải chấp nhận một cuộc điều đình có lợi cho chính quyền Cộng Sản Miền Bắc.

Thời Cơ Chiến Lược 2: Dư luận quốc tế đang hướng về Việt Nam và đang chỉ trích vai trò của Hoa Kỳ trong cuộc chiến. Nếu Việt Cộng tạo được chiến thắng lớn lao, họ sẽ gây được tiếng vang và có lẽ sẽ đạt được nhiều sự ủng hộ của quốc tế để chấm dứt cuộc chiến.

Thời Cơ Chiến Thuật: Bắc Việt muốn tạo một sự bất ngờ trong lãnh vực quân sự khi họ mở cuộc tổng tấn công và đánh vào ngày Tết trong khi lệnh hưu chiến (ăn Tết 3 ngày) tại miền Nam đã được ban hành.

Với ba điều nhận định trên, chính quyền Miền Bắc tin tưởng chiến dịch tổng tấn công sẽ thành công. Tuy nhiên họ cũng dự liệu đến trường hợp thất bại, và cho rằng lực lượng Việt Cộng tại miền Nam hiện thời đã đứng vững trên 2 “chân” rừng núi và nông thôn. Nếu từ hai chỗ đứng này họ dốc toàn quân đánh vào thành thị, nếu thắng thì ăn to, nhưng nếu không thắng thì lại trở về 2 “chân” cũ là rừng núi và nông thôn, chẳng mất mát gì cả.

Trong kế hoạch tổng tấn công, Việt Cộng dựa vào sự bất ngờ để mong đánh chiếm được các cơ quan quân sự đầu não của Việt Nam Cộng Hòa. Qua sự kết hợp giữa quân sự với chính trị, họ chiếm mau lẹ được các thành phố lớn bằng sự nổi dậy của người dân miền Nam khắp mọi nơi. Trước tình hình này, Việt Cộng cho rằng quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa có mạnh mẽ đến đâu cũng không dám oanh kích vào dân chúng (khởi nghĩa), nhất là oanh kích vào thủ đô Saigon với dân số đến 3 triệu người.

Như thế dư luận quốc tế sẽ lên án và Hoa Kỳ sẽ đành bó tay. Và khi đã có một chính phủ mới, Việt Cộng tin rằng tất cả các đơn vị của Việt Nam Cộng Hòa có thể sẽ phải đầu hàng. Nếu các đơn vị này không chịu đầu hàng, lúc đó họ sẽ vận dụng quân đến thanh toán dần từng chỗ, hoặc vận dụng thân nhân của các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa phối hợp cùng dân chúng qua sự yểm trợ của các cán binh Cộng Sản (tức cho thân nhân binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa và dân đi trước) ồ ạt ùa vào chiếm các vị trí quân sự thì lúc đó các binh sĩ miền Nam sẽ không thể phản ứng được gì cả.

Tại khắp các thành phố và đô thị, Việt Cộng đã tung vào trận đánh rất nhiều cán bộ chính trị để xúc tiến việc thành lập những chính quyền mới. Họ tạo dựng một tổ chức chính trị mới gọi là “Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình,” một tổ chức tổng hợp các đảng Miền Nam đại diện cho tất cả màu sắc chính trị. Mặt trận này cũng là một loại tổ chức như Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do Cộng Sản miền Bắc gầy dựng và giật dây. Mặc dầu rằng vào tháng 8 năm 1967, Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã đưa ra một bản cương lĩnh mới với mục đích mở rộng nền móng tổ chức mặt trận và để lập một chánh phủ đoàn kết quốc gia ở Miền Nam, nhưng mặt trận này cũng vẫn không thu thập được sự ủng hộ của nhiều người.

Khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân xảy ra, Hà Nội tung ra tổ chức Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình là có ý thu hút cấp thời ngay được các giới trí thức ở các thành thị vào các liên minh chính trị mới và những liên minh mới này sẽ góp vai trò trong một chính phủ liên hiệp tương lai. Tại thủ đô Saigon, Mặt Trận Liên Minh

Tại thủ đô Saigon, Mặt Trận Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Và Hòa Bình do luật sư Trịnh Đình Thảo, ông Lâm Văn Tết cùng Thượng Tọa Thích Đôn Hậu cầm đầu. Thành phần này thuộc trong tổ chức trung ương. Còn tại Huế, một tổ chức loại này cũng thật sự ra mặt hoạt động và do giáo sư Lê Văn Hảo cầm đầu. Tổ chức này đã gây ra nhiều xáo trộn chính trị tại thành phố Huế.

Kế Hoạch Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa Đối Với Các Trận Đánh Chiến Thuật Được Điều Động Theo Từng Chặng

Thoạt đầu, từ trước những ngày Tết, Việt Cộng cho xâm nhập vũ khí đạn dược chất nổ vào thành phố và đô thị bằng cách mang tay qua các vùng ven đô ven thị, bằng chuyển vận trên các xe chở hàng hóa qua các cửa ngõ kiểm soát vào trong thành phố. Thường thường Việt Cộng dấu vũ khí đạn dược trong hòm xe, trên chất hàng hóa. Nhất là các xe chở dưa hấu.

Trong dịp Tết, Việt Cộng lọt qua các trạm kiểm soát tài nguyên yên ổn và không có một trường hợp bị bắt nào xảy ra. Chuyên chở vũ khí vào thành phố trên các xe chở hàng đã được nhiều tù binh Việt Cộng xác nhận. Việt Cộng còn cho vũ khí xâm nhập vào thành phố trên các ghe chở cát và khi bốc cát lên bờ, vũ khí được dấu để ngay dưới đống cát.

Các vũ khí đạn dược ngoài sự dấu diếm trong các nhà của cán binh nội thành, phần nhiều được dấu ở các nghĩa địa, như tường hợp ở thủ đô Saigon trong dịp Tết. Việt Cộng dấu trong các quan tài chôn xuống đất và vì là mùa khô nên đạn dược súng ống không bị hư hỏng rỉ sét. Các nghĩa địa được chọn dấu vũ khí sẽ biến thành những địa điểm tập trung và phân phát vũ khí trước khi hành sự.

Mặt khác, các cán bộ nằm vùng trong nội thành đại để như các cán bộ cơ sở tiếp rước, cán bộ cơ sở tiếp trú, cán bộ tiếp tế, cán bộ xây dựng cán bộ kinh tài, cán bộ phụ trách các giới, cán bộ cơ sở liên lạc, cán bộ liên lạc đặc biệt, cán bộ cơ sở rải truyền dơn, cán bộ truyền tin và đặc công, người nào việc ấy đều được học tập để chuẩn bị cho các công tác sắp tới. Việt Cộng cho rằng các trận đánh thành hay bại là do nơi các đặc công mà họ coi là những thành phần cốt cán và ưu tú nhất.

Vào những ngày giáp Tết, Việt Cộng cho nhiều đơn vị cải trang thường dân với đầy đủ giấy tờ hợp lệ, xâm nhập vào nội thành và họ đã lọt vào các thành phố, còn được đưa đi ăn, đi coi hát và được dẫn đến những địa điểm được lựa chọn làm mục tiêu tấn công để quan sát trước khi đánh.

Kế hoạch đánh chiếm các thành phố và đô thị của Việt Cộng đã được hoạch định như sau:

Chọn lựa các mục tiêu quyết định như cứ điểm quan trọng quân sự, cơ quan đầu não hành chánh. Để đánh chiếm các mục tiêu này, Việt Cộng xử dụng các đơn vị đặc công hoặc đã nằm sẵn trong thành phố, hoặc xâm nhập từ ven biển vào. Các đơn vị này võ trang súng B-40, B-41 (súng phóng lựu, thường dùng trong việc chống thiết giáp), cùng súng AK và các chất nổ xung kích vào các mục tiêu một cách bất ngờ để làm chủ tình hình mau chóng.

Cho quân tràn vào các khu đông dân cư nhất gồm các khu dân cư lao động. Phối hợp với các đơn vị quân sự, họ mang theo nhiều cán bộ chính trị để xúi dục dân chúng thành phố nổi dậy, cướp chính quyền lập một tổ chức chính trị mới. Để chuẩn bị cho kế hoạch tổng công kích – tổng khởi nghĩa, vào cuối năm 1967 Hà Nội đã cho xâm nhập vào Miền Nam trên 300 cán bộ trí thức gồm đủ thành phần như giáo sư, giảng sư đại học, kỹ thuật gia điện ảnh, văn nghệ sĩ, kỹ sư, bác sĩ, v.v… Họ được phân chia đều cho các tỉnh để làm nồng cốt cho việc tổ chức một mặt trận chính trị và văn hóa sau ngày tổng công kích thành công.

Để tham dự vào cuộc tổng công kích, Việt Cộng đã huy động lối 97 tiểu đoàn. Những tiểu đoàn này đều mang những danh hiệu đơn vị quen thuộc, nhưng các thành phần binh sĩ đa số gốc tại Bắc Việt mới xâm nhập vào trước trận đánh chừng 2 đến 3 tháng. Có rất nhiều cán binh Việt Cộng còn là con nít dưới 15 tuổi. Không biết Việt Cộng đã nghĩ sao mà đem đám trẻ thơ non dại này vào chiến trận để hủy diệt cuộc đời đầy thanh xuân và hy vọng của các em… Những cán binh này chưa quen trận mạc, thiếu kinh nghiệm chiến trường, ngỡ ngàng trước trận địa là nhà cửa và thành phố. Lý do chính của sự thất bại của Việt Cộng một phần lớn do ở khả năng tác chiến kém cỏi của những cán binh trẻ tuổi này.

Kế hoạch tổng công kích – tổng khởi nghĩa đã được giữ bí mật đến khi trận đánh xảy ra trên toàn quốc. Sự thống nhất chỉ huy của Việt Cộng cũng có phần mạch lạc, phát khởi các trận đánh tại các tỉnh lỵ vào một thời gian không xê xích mấy. Có lẽ Việt Cộng đã lấy mốc đêm giao thừa Tết Mậu Thân năm 1968 để làm chuẩn thời gian phát động chiến dịch tổng tấn công. Ngoài ra, các đơn vị Việt Cộng tham dự trực tiếp các trong trận dánh đã dùng chiến thuật bôn tập để tránh mọi sự tiết lộ trước khi đánh. Trong kế hoạch tổng tấn công này, Việt Cộng đã dự liệu đến phương thức “Nhất Điểm Lưỡng Diện.” Họ đã bày ra “diện” bằng những hoạt động cầm chân vào đầu năm 1968 tại Khe Sanh để dồn quân bất ngờđánh vào “điểm” là các thành phố và thủ đô.

Tổng Kết Thiệt Hại Của Trong Kỳ Tổng Công Kích Đợt 1:

Dưới đây là những con số ghi các sự thiệt hại quân sự và dân sự trên toàn quốc theo báo cáo của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH trong tháng 2 và 3/1968, là thời gian xảy ra các trận đánh trong vụ tổng công kích đầu năm 1968, và tái tấn công ngày 17/2/68 và những vụ kế tiếp đến 31 tháng 3/1968.

VIỆT NAM CỘNG HÒA
……………………. tháng 2/1968 tháng 3/1968
tử thương 3,501 1,453
bị thương 10,678 4,419
mất tích 543 383
tổng cộng 14,722 6,255
vũ khí bị mất 1,418 (súng cá nhân), 106 (súng cộng đồng) 741 (súng cá nhân), 741 (súng cộng đồng)
ĐỒNG MINH (Hoa Kỳ, Úc, Nam Triều Tiên, Thái Lan, v.v.)
. tháng 2/1968 tháng 3/1968
tử thương 2,832 1,292
bị thương 15,832 3,453
mất tích 352 252
tổng cộng 19,016 4,997
TỔN THẤT PHI CƠ CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VÀ ĐỒNG MINH
. tháng 2/1968 tháng 3/1968
bị tiêu hủy 63 60
hư nặng 154 60
hư nhẹ 99 116
VIỆT CỘNG
……………………. tháng 2/1968 tháng 3/1968
tử thương 41,181 17,192
tù binh 7,391 2,070
tổng cộng 48,572 19,262
vũ khí bị tịch thu 9,079 (súng cá nhân), 2,923 (súng cộng đồng) 4,109 (súng cá nhân), 1,328 (súng cộng đồng)
tổng cộng 7,257 2,954

Ngoài ra, con số tổng thất của thường dân tại miền Nam Việt Nam trong đợt tổng công kích đầu tiêng của Việt Cộng (tháng 2 sang đến tháng 3) được ghi nhận như sau: 14,300 người chết, 24,000 người bị thương, 72,000 vô gia cư (nhà cửa bị tiêu tan), 627,000 người tỵ nạn.
——————
(Phần 4)

CUỘC TẤN CÔNG ĐỢT HAI: NGÀY 5 THÁNG 5/1968

Sau thất bại của cuộc tổng tấn công đợt một vào dịp Tết Mậu Thân, Việt Cộng đã mở trận tấn công ngày 17 tháng 2/1968 nhằm hỗ trợ tinh thần cho chiến trường Huế còn dang sôi động lúc bấy giờ. Cuộc tấn công được chú trọng vào thủ đô Saigon, nhưng các lực lượng Việt Cộng chỉ đến vùng ven đô đã bị đánh tan không xâm nhập được vào trong thành phố. Tối ngày 5 tháng 3/1968, Việt Cộng đồng loạt mở một cuộc tấn công khác phần lớn bằng pháo kích trên khắp nơi. Cuộc tấn công này ngắn ngủi và yếu ớt, dường nhi chỉ nhằm gây tiếng vang. Từ ngày đó đến ngày mở cuộc tổng tấn công đợt 2, Việt Cộng chỉ hoạt động theo mức độ thường lệ.

Chánh quyền Miền Nam tỏ ra thận trọng và tăng gia các biện pháp bố phòng. Lệnh giới nghiêm được ban hành trên toàn cõi Miền Nam tức khắc ngay sau biến động xảy ra. Ngày 28 tháng 2/1968, thủ tướng chính phủ ký sắc lệnh đình chỉ việc giải ngũ mọi loại quân nhân, gọi tái ngũ mọi loại quân nhân khác trở lại quân đội.

Từ đầu tháng Ba dương lịch, tất cả các nam giáo sư, sinh viên từ 18 đến 45 tuổi đều phải tham gia huấn luyện quân sự. Sau 2 tuần lễ huấn luyện quân sự, sinh viên phải mặc đồng phục kaki vàng và ghép thành hàng ngũ. Tại nhiều tỉnh lỵ, các đoàn phòng vệ dân sự được tự động tổ chức theo sang kiến của các tỉnh trưởng. Các công chức phải tham gia phong trào. Phong trào này sau được đổi danh thành phong trào Nhân Dân Tự Vệ.

Các đoàn thể chính trị cùng hoạt động. Ngày 10 tháng 3/1968, Mặt Trận Nhân Dân Cứu Nguy Dân Tộc ra đời và bầu được ban chấp hành trung ương do Thượng Nghị Sĩ Trần Văn Đôn làm chủ tịch. Về phương diện xã hội, để cứu trợ các nạn nhân thời cuộc, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trong một thông điệp ban bố ngày 28 tháng 2/1968 đã quyết định mở một cuộc lạc quyên trên toàn quốc trong vòng một tháng. Mỗi một quân nhân sĩ quan và công chức phải góp vào cuộc lạc quyên này một ngày lương toàn vẹn. Ủy ban Cứu trợ Trung ương được giao trách nhiệm cho Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ.

Sau ngày biến động, bộ mặt bình thương của Miền Nam đã thành một bộ mặt chiến tranh phấn khởi. Một điều ghi nhận là dân chúng và binh sĩ lại có vẻ tin tưởng ở sức mạnh của mình khi họ mục kích trước mắt các đơn vị Việt Cộng bị thua, bỏ chạy và Việt Cộng bị chết rất nhiều.

Sự phấn khởi của nhân dân được bộc lộ ra nhất là đối với giới thanh niên trước đây trốn tránh quân dịch trở ra trình diện đầu quân vui vẻ. Do đó, trong vòng hơn một tháng, các đơn vị Quân Lực VNCH bị tổn thất trong biến động đầu Xuân đã bổ sung được đầy đủ quân số. Nhiều đơn vị còn có quân số trội hơn trước. Thành phần quân số bổ sung sau dịp Tết gồm những người tái ngũ, những người mới đầu quân và những quân phạm được ân xá trong trường hợp tình nguyện gia nhập quân đội đãi công chuộc tội.

Một điều ghi nhận khác nữa là các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa được thay thế các vũ khí cũ bằng vũ khí mới M-16. Loại súng này là loại tối tân nhất của Hoa Kỳ vào năm 1968. Việc trang bị vũ khí mới đã làm cho các đơn vị tăng thêm hỏa lực, binh sĩ tăng thêm tinh thần chiến đấu.
Ngày 31 tháng 3/1968, Tổng Thống Johnson ra Lệnh cho Không Quân Hoa Kỳ hạn chế oanh tạc Miền Bắc và ngỏ ý hoà đàm với Bắc Việt. Trong khi đó, tại Việt Nam ngày 1 tháng 4/1968 quân đội Mỹ mở một cuộc hành quân giải tỏa Khe Sanh. Cuộc hành quân được giao cho Sư Đoàn 1 Không Kỵ. Sơ khởi hành quân trực thăng vận chiếm mấy ngọn đồi cao chế ngự Quốc Lộ 9, các đoàn quân chính gồm chiến xa và bộ binh dựa theo quốc lộ này tiến vào Khe Sanh.

Cuộc hành quân chậm chạp không gặp chống cự chống trả mãnh liệt của địch. Lực lượng giải tỏa Việt Mỹ khoảng 20,000 người gồm các binh sĩ thuộc Sư Đoàn 1 Không Vận, Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ và một chiến đoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa. Căn cứ Khe Sanh bị quân Bắc Việt bao vây 76 ngày. Đến ngày 5 tháng 4/1968, Khe Sanh được giải tỏa.

Ngày 6 tháng 4/1968, Hoa Kỳ chính thức liên lạc ngoại giao với Bắc Việt để mở hội nghị hòa đàm, và ngày 8 tháng 4/1968 nhận được đáp thư của Bắc Việt chấp nhận. Hai bên tiến đến chỗ tìm một địa điểm hòa đàm mà sự chọn lựa địa điểm đã kéo dài đến gần một tháng vẫn không giải quyết được. Bắc Việt đề nghị mở hội đàm ở Ba Lan hoặc Cao Miên, Hoa Kỳ ngược lại đòi mở hội đàm tại một trong 10 nước: Tích Lan, Nhật Bản, Pakistan, Nepal, Afghanistan, Mã Lai, Ý, Bỉ, Phần Lan hoặc Úc.

Vào khoảng trước ngày 10 tháng 4/1968, một thượng tá Việt Cộng tên Tám Hà về hồi chánh. Viên thượng tá này tiết lộ là Việt Cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Saigon, khu Chợ Lớn và Gia Định. Tám Hà cũng cho biết khoảng chừng trên 10,000 cán binh Việt Cộng đang chuẩn bị tấn công thủ đô Saigon vào ngày 22 tháng 4/1968. Nhưng có thể vì lý do nào đó đã chậm lại. Lực lượng tấn công của Việt Cộng gồm 2 trung đoàn thuộc Công Trường (CT) 9, hai trung đoàn thuộc Công Trường 5 và được tăng cường thêm chừng hai trung đoàn địa phương gồm các Trung Đoàn 165 và Trung Đoàn Đồng Tháp.

Để công kích Saigon, Công Trường 9 sẽ đánh từ vùng ven đô Tây-Bắc. Mục tiêu tấn công gồm cả phi trường Tân Sơn Nhất. Trong khi đó Công Trường 5 sẽ tấn công từ phía Tây và phía Nam. Các mục tiêu được chọn lựa và các cứ điểm quân sự, nhà đèn, các nơi tiện nghi công cộng và trọng yếu trong thành phố. Các đơn vị quân đội tại Saigon mới được giải tỏa 50 phần trăm phải cấm trại trở lại 100 phần trăm khi nhận được tin tiết lộ này.

Ngày 28 tháng 4/1968, Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ hành quân trực-thăng vận bất ngờ vào thung lũng A Shau, nơi đặt một căn cứ tiếp vận quan trọng của Bắc Việt. Cuộc hành quân này đã dùng đến hơn 200 phi cơ trực thăng. Sau đó, một chiến đoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa được gởi ngay đến để tăng cường. Tại thung lũng A Shau, quân Cộng Sản Bắc Việt chống trả yếu ớt. Tuy nhiên súng phòng không địch tác xạ rất hiệu quả làm 30 trực thăng của Hoa Kỳ bị hư hại. Liên quân Việt-Mỹ phá hủy và tịch thu được rất nhiều chiến cụ trong cuộc hành quân này.

Trong khi đó, cuộc dàn xếp chọn một địa điểm nghị hòa vẫn diễn tại Lào giữa Đại Sứ William S. Sullivan của Hoa Kỳ và tổng đại diện Nguyễn Chấn của Bắc Việt. Cuộc tiếp xúc riêng này đã mang đến kết quả là ngày 3 tháng 5/1968, Hoa Kỳ và Bắc Việt công bố chọn Paris làm địa điểm hội nghị sơ bộ.

Cuộc hội họp đầu tiên được ấn định vào ngày 10 tháng 5/1968. Sau đó hai bên công bố thành phần phái đoàn. Phía Hoa Kỳ, ông Harriman trưởng phái đoàn. Ông Cyrus Vance cố vấn đặc biệt cho Tổng Thống Johnson làm phó trưởng phái đoàn. Tướng Andrew Godpaster, phụ tá của tướng Westmoreland ở Việt Nam làm hội viên. Ông Jordan chuyên viên về các vấn đề Việt Nam tại Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, kiêm thứ trưởng ngoại giao phụ trách Viễn Đông sự vụ, làm hội viên, v.v…

Phía Bắc Việt, ông Xuân Thủy, Bộ Trưởng Không Giữ Bộ Nào (chức vụ “Bộ Trưởng Không Giữ Bộ Nào” thật sự là một chức vị hoàn toàn có thật trong chánh quyền Cộng Sản Bắc Việt) làm trưởng đoàn, Đại Tá Hà Văn Lâu là đại-sứ trưởng phái đoàn Bắc Việt, Nguyễn Minh Vỹ và Nguyễn Thành Lê là hội viên, v.v…

Trong khi hội nghị chính trị Paris thành hình, chiến cuộc tại Việt Nam vẫn gia tăng mức độ. Mọi người đều nghi và biết như vậy nhưng không hiểu cường độ chiến tranh sẽ gia tăng vào lúc nào và ở những nơi nào.

Ngày 4 tháng 5/1968, một triệu chứng đầu tiên khơi mào cho một cuộc tấn công lớn được phát hiện. Đó là một tiếng nổ rất to do Việt Cộng gây ra ở gần đài vô-tuyến truyền hình tại Saigon. Khoảng 60 kg chất nổ TNT được dấu trên xe taxi. Lúc 13 giờ trưa, chiếc taxi bùng nổ gây tử thương cho 3 người chết và khoảng 30 người khác bị thương. Một căn nhà ở gần đài truyền hình cũng bị sập đổ.

Người ta cho rằng tiếng nổ này là một hiệu lệnh của Việt Cộng phát động cho cán binh của họ mở cuôc tấn công vào thủ đô Saigon ngày hôm sau.

Chỉ 24 giờ sau khi tin Hoa Kỳ và Bắc Việt thảo luận họp nhau ở Paris được tung ra là Việt Cộng đã mở cuộc tấn công vào Saigon. Cuộc tấn công này phát xuất lúc 03 giờ 10 chiều ngày 5 tháng 5/1968. Lúc đầu, Việt Cộng bắn những loạt trọng pháo loạn xạ bưà bãi vào thành phố. Sau đó các đơn vị võ trang của họ xuất hiện tại nhiều nơi. Tuy cuộc tấn công được khai diễn trên toàn quốc bằng hỏa lực pháo kích, nhưng mục đích thật sự là Cộng quân muốn chỉa mũi dùi bộ-chiến vào thủ đô Saigon.

Cuộc tấn công của Việt Cộng ngày 5 tháng 5/1968 vào Saigon kéo dài đến ngày 12 tháng 5/1968 mới chấm dứt. Các lực lượng võ trang Việt Cộng chỉ lọt được vào vùng ven đô. Sau đó họ lần lượt bị tiêu diệt và đẩy lui ra khỏi thành phố.

Ngày 25 tháng 5/1968, Việt Cộng lại tiếp tục tấn công thủ đô Saigon. Lần này họ xâm nhập qua Đồng Ông Cộ vào khu vực Ngã Năm Bình Hòa và những khu kế cận. Họ chiếm và cố thủ trong các nhà của thường dân vô tội để chống lại cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Tại Chợ Lớn, Việt Cộng cũng xâm nhập được vào nhiều khu phố thuộc Quận 6. Họ tổ chức chiến đấu ngay trong các khu vực đông dân cư, chiếm mấy nhà kiên cố làm pháo đài. Các trận chiến xảy ra tại những khu vực này vô cùng khốc liệt

ĐƯỜNG LỐI CHIẾN LƯỢC VÀ CHIẾN THUẬT CỦA VIỆT CỘNG TRONG CUỘC TẤN CÔNG ĐỢT HAI VÀO SAIGON

Trong chiến lược tổng tấn công kỳ trước (đợt 1), chính Việt Cộng đã nhận thấy sai lầm khi lực lượng võ trang được trãi rộng ra để tấn công cùng một lúc tại khắp nơi. Chiến lược dùng quân sự trãi-rộng chỉ khi nào quân lực tấn công mạnh hơn đối phương, còn nếu yếu hơn tất nhiên không đủ lực để đánh, sẽ bị thất bại. Việt Cộng hiện nay tại Miền Nam không có yểm trợ không quân, cần phải chọn điểm rồi tập trung lực lượng đông và thay phiên đánh mới mong thắng được.

Chọn lựa những mục tiêu chiến lược để hậu thuẫn cho hội nghị Paris chẳng còn mục tiêu nào tốt hơn là các thành phố, và nhất là Saigon vì đánh vào được Saigon sẽ gây những tiếng vang chính-trị lớn và làm rối loạn hệ thống lãnh đạo của đối phương.

Chiến thuật của Việt Cộng áp dụng trong kỳ đầu tháng tháng 5 năm 1968 như sau :

– Tránh né tất cả những vị trí đóng quân của Việt Nam Cộng Hòa mà lần trước họ đã tấn đánh.

– Xâm nhập vào các khu dân cư, nhờ đêm tối, và vào những chỗ không có quân án ngữ.

– Khi bám vào nhà cửa tại khu vực xâm nhập, Việt Cộng chấp nhận thiệt hại, đợi quân ta đến đánh và không chịu thối lui.

– Nếu các lực lượng ngăn chặn không kịp thời phản ứng, Việt Cộng sẽ lan tràn ngay sang các khu dân cư khác và tăng viện quân mới đem vào để mở rộng vết dầu loan.

– Áp dụng chiến thuật nội công ngoại kích bằng các toán đặc công gây xáo trộn ngay trong thành phố.

Trong các ngày biến động, các toán Việt Cộng đã vào được các khu Thị Nghè, Bảy Hiền, Minh Phụng, Bình Thới, Bình Tiên và Phạm Thế Hiển, v.v… Các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa đã ngăn chận hữu hiệu không cho Việt Cộng lan tràn sang các khu vực khác. Nhưng để đẩy lui hẳn đối phương, quân đội miền Nam đã phải dùng hỏa lực mạnh mẽ của phi pháo và chiến xa mới làm chủ tình hình được.

Đúng ra khi mở mặt trận tại thành thị, Cộng quân chỉ nhằm duy trì một tình trạng bất an nhưng không nhằm thâu những chiến thắng quân sự lớn lao. Họ chỉ dùng những tình hình xáo trộn để phá vỡ nền tảng kin tế và chính trị của chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa, đồng thời tìm cơ hội khuynh đảo chính phủ Quốc Gia. Để thực hiện mặt trận này, Cộng Sản đã dùng du kích chiến nhưng đã chế biến đôi chút để thích nghi với kỹ thuật chiến đấu trong thành phố.
Ngày 12 tháng 5/1968, Việt Cộng bị đánh bật ra. Nhưng tới ngày 25 tháng 5/1968 họ lại xâm nhập vào đô thành tại hai ngã: ở phía Bắc Gia Định và từ phía Nam Chợ Lớn. Việt Cộng áp dụng một chiến lược như kỳ trước là đột nhập khu dân cư và bám sát vào khu này chống đánh các lực lượng giải tỏa.

Lần này Việt Cộng đã khai thác được những sơ hở của phòng đai phòng thủ nên các phần tử địch đột nhập vào rồi quân ta mới biết. Trước khi nổ súng, Việt Cộng rãi quân chiếm giữ tất cả những địa điểm then chốt trong khu vực như các tòa nhà lớn, nhà máy, xí nghiệp, các nơi tôn nghiêm. Ngoài ra tại các khu đất trống và gò mả Việt Cộng còn đào các hầm hố chiến đấu.

Khi đã bám vào được các khu vực vừa chiếm, mỗi đêm họ cho tăng viện thêm quân vào. Đoàn quân di chuyển vào theo từng toán nhỏ nhưng những toán này được trang bị hỏa lực rất mạnh. Đây là những cán binh đã được dưỡng quân lâu dài. Trong khi đó, các đơn vị mệt mỏi và bị thiệt hại thì lại được rút ra. Chiến thuật này được gọi là “xa luân chiến” với mục đích tạo một cuộc đánh dài lâu vào thủ đô.

Việt Cộng áp dụng phương pháp du-kích chiến trong thành phố. Bị đánh ở nơi này, họ bèn bỏ chạy sang nơi khác, nhưng vẫn cố bám vào các khu vực đông dân cư và chẳng chịu rút ra. Khi Cộng quân cố thủ tại những vị trí chiến đấu vững chãi, họ có thể gây cho lực lượng phản công của quân đội VNCH nhiều thiệt hại. Việt Cộng không tập trung đóng tại một chỗ, mà lại chia quân ra nhiều ổ kháng cự gồm trên dưới một tiểu đội.

Do đó các cuộc hành quân giải tỏa của quân đội VNCH đã rất khó khăn. Để ngăn cản sự bành trướng của Việt Cộng và tiêu diệt họ ở trong những vị trí chiến đấu kiên cố, quân đội chánh phủ đã phải sử dụng đến phi cơ và chiến xa.

Cũng kể từ cuộc tấn công đợt hai vào Saigon, hằng đêm Việt Cộng bắn hàng loạt hỏa tiễn 122 ly và đạn súng cối 82 ly bừa bãi vào các khu phố gây nên một sự chết chóc và sợ hãi trong dân chúng.

Tóm lại, qua các cuộc tấn công của Việt Cộng vào Saigon, có thể nhận định rằng họ đã thay đổi chiến lược một cách rõ rệt. Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đầu tiên, Việt Cộng chỉ nhằm đánh vào các cơ quan quân sự và đưa các cán bộ chính trị vào các thành phố để khuấy động qua các cuộc biểu tình chống chính phủ.

Đối với cuộc tấn công kỳ hai, ngày 5 tháng 5/1968, Việt Cộng không đánh vào một cứ điểm quân sự nào mà lại xâm nhập Saigon qua các khu dân cư, rồi bám vào các nơi này để chống đánh lại các lực lượng của chánh phủ.

Còn đối với các cuộc tấn công ngày 25 tháng 5/1968, Việt Cộng cũng áp dụng phương pháp tác chiến như cuộc tấn công ngày 5 tháng 5/1968, nhưng lần này họ cố tạo ra một cuộc đánh lâu dài với hầm hố và công sự chiến đấu được tổ chức chu đáo và cũng trong lần này họ đã rút tỉa được kinh nghiệm của các kỳ trước để tránh các thiệt hại về quân số.

Trong cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân đầu tiên, họ không pháo kích vào Saigon. Nhưng trong cuộc tấn công đợt hai này họ đã pháo kích bừa bãi ngay vào các khu dân cư. Đây là một chiến thuật đê hèn nhằm phá vỡ nền tảng kinh tế, bần cùng hóa thủ đô, để tạo nên một mối kinh hoàng trong lòng người dân.

Nhưng rồi tất cả những âm mưu của Việt Cộng đã đều bị bẻ gãy trước sự suy nhược của họ. Nhiều cán binh mất tinh thần vì con số chết chóc phiá bên họ đã quá cao. Sự việc này làm cho nhiều cán binh trẻ tuổi không chịu nổi. Họ đã buông súng, đã đầu hàng tập thể để mong cứu lấy mạng sống của họ, và cũng như để chạy về hàng ngũ của chánh phủ Quốc Gia.
————————-
Phần 5)

SAIGON
Các Trận Ðánh Trong Ðợt Tổng Công Kích Ðầu Tiên
(Thủ đô Saigon, Chợ Lớn, Gia Định và các vùng phụ cận)

Việt Cộng tấn công thủ đô Saigon vào lúc 2 giờ khuya mồng một Tết Mậu Thân năm 1968. Trong khi tiếng pháo mừng Xuân vẫn còn nổ lẻ tẻ trên các hè phố đô thành, bỗng xen lẫn vào tiếng súng to nhỏ nổ vang theo từng nhịp. Người dân đô thành quen hưởng cảnh an lạc thái bình không quen phân biệt tiếng nổ, chỉ tưởng là pháo. Cũng có nhiều người biết là tiếng súng nhưng họ cũng chẳng quan tâm vì trong thời loạn ly những tiếng súng nổ đối với họ quá thường tình và họ coi như chẳng có gì quan trọng xảy ra.

Khi trời sáng rõ, người dân đô thành vẫn trong cái sinh hoạt ngày Tết ăn mặc trịnh trọng kéo nhau ra đường để tiếp tục các cuộc hành trình thăm viếng và vui chơi. Nhưng rồi những tin tức về một cuộc tấn công của Việt Cộng được đưa tới. Nhiều người vẫn hoài nghi cho rằng chỉ là một vụ đảo chánh như những vụ đảo chánh khác đã xảy ra qua tiếng súng nổ ở đô thành.

Vào 08 giờ sáng, đài phát thanh Quốc Gia đọc lời ban bổ lệnh giới nghiêm của Phó Tổng Thống. Ông Nguyễn Cao Kỳ thừa hành lệnh của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tố cáo các hành vi tấn công của Việt Cộng vi phạm lệnh hưu chiến. Người dân vẫn hoài nghị tại sao Tổng Thống Thiệu không đích thân công bố. Nhưng rồi ở giữa một thủ đô Saigon rộng lớn mà những cái ở đầu tỉnh xảy ra cuối tỉnh không hay, thì bây giờ người ta đều được biết là Việt Cộng quả thực đã tấn công vào đô thành.

Việt Cộng đã lợi dụng sự đi lại tự do suốt đêm và lệnh hưu chiến để xâm nhập vào nhiều nơi trong thủ đô. Đêm mồng Một Tết, họ đã mở nhiều cuộc công kích vào một vài địa điểm quan trọng và đầu não tại trung tâm thành phố:

BỘ TỔNG THAM MƯU QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA (VNCH): Tại đây Việt Cộng đánh vào các cổng số 4 và số 5. Riêng tại cổng số 4, họ tràn vào được nhưng bị cầm chân tại chỗ.

DINH ĐỘC LẬP: Việt Cộng định đột nhập do cửa sau phía đường Nguyễn Du nhưng không vào được.

BỘ TƯ LỆNH HẢI QUÂN: Việt Cộng bị hạ toàn bộ khi vừa xông vào cửa.

PHI TRƯỜNG TÂN SƠN NHẤT: Việt Cộng bị ngăn chận và bị thiệt hại nặng khi đang tiến vào cuối phi đạo ở gần khu Bà Quẹo.

ĐÀI PHÁT THANH QUỐC GIA (tại đường Phan Đình Phùng): Việt Cộng đột nhập được vào lầu dưới đài phát thanh.

TÒA ĐẠI SỨ PHI LUẬT TÂN (tại đường Phan Thanh Giản): Việt Cộng đột nhập dễ dàng. Nhưng vị đại sứ người Phi đã kịp thời chạy thoát.
Cũng trong đêm này, tại các khu vùng phụ cận thủ đô, Việt Cộng đã mở các cuộc công kích vào một vài nơi khác:

Trại Cổ Loa và trại Phù Đổng Thiên Vương của Thiết Giáp và một phần trại Cổ Loa của Pháo Binh.

Căn Cứ 80 Quân Cụ và Căn Cứ 60 Truyền Tin tại Hạnh Thông Tây: Việt Cộng chỉ bắn quấy phá.

Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung tại Hốc Môn: Việt Cộng bị thiệt hại nặng và bị ngăn chặn tại cổng trại.

Vào sáng mồng 2 Tết nhiều cánh quân địch xuất hiện tại đô thành và các vùng phụ cận. Tình hình địch được ghi nhận như sau:

Một cánh quân Việt Cộng xuất hiện tại khu Bà Quẹo. Họ đặt bộ chỉ huy tại hãng dệt Vinatexco để uy hiếp phi trường Tân Sơn Nhất và các khu dân cư tại đây.

Một cánh quân Việt Cộng xuất hiện tại khu Gò Vấp. Họ uy hiếp và chiếm một phần trại Cổ Loa của Pháo Binh và toàn trại Phù Đổng của Thiết Giáp. Việt Cộng cũng xâm nhập các khu đông dân cư Gò Vấp, Xóm Mới, rồi lan tràn tới khu Ngã Năm Bình Hòa.

Một cánh quân Việt Cộng xuất hiện tại Hàng Xanh để rồi tiến quân về Tiểu Khu Gia Định và uy hiếp khu vực Cầu Xa Lộ.

Một cánh quân Việt Cộng xuất phát từ Phú Thọ và lan tràn vào các khu dân cư ở Phú Thọ, Bà Hạt và các khu kế cận.

Một cánh quân Việt Cộng còn hoạt động ở xa thủ đô Saigon tại vùng Thủ Đức. Họ tấn công chi khu Thủ Đức trong đêm trước và đang uy hiếp chi khu này.

Một cánh quân Việt Cộng sau chót còn hoạt động ở xa thủ đô tại vùng Hốc Môn. Họ chiếm các vùng phụ cận Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung.

Việt Cộng xử dụng các toán đặc công xung kích vào các mục tiêu tại trung tâm thủ đô. Trong khi đó, các lực lượng khác ở bên ngoài đều tiến vào nội thành để hỗ trợ cho các toán xung kích ở bên trong, và đồng thời xâm nhập vào các khu dân cư.

Sở dĩ Việt Cộng thất bại không làm chủ được tình hình vì họ dùng những lực lượng xung kích quá nhỏ để đánh vào những mục tiêu quá lớn. Các lực lượng xung kích nhỏ này không đủ khả năng mở đợt công phá dù xâm nhập được vào bên trong nhưng tiềm lực yếu cho nên họ không thể thọc sâu khai thác chiến quả. Hơn nữa, các lực lượng bên trong và bên ngoài của Việt Cộng vì hoạt động trên một địa bàn quá rộng rãi nên đã không phối hợp và hỗ trợ nhau chặt chẽ được. Tuy các cánh quân của Việt Cộng đã có mặt ở các vùng ven đô nhưng sự hoạt động của họ có vẻ rất rời rạc.

Sáng mồng 2 Tết, các đơn vị Việt Cộng mưu toan đánh úp các cơ quan đầu não của Việt Nam Cộng Hòa đã không thành công trong đêm trước. Việt Cộng không đánh vào bất cứ một cơ quan nào của Hoa Kỳ. Và với các cánh quân nói trên, họ hy vọng ở sự tiếp tay nổi dậy của dân chúng, cố gắng lan tràn vào các khu đông dân cư.

Để ngăn chặn và theo dõi các hoạ động của họ, các phi cơ chiến đấu và quan sát của Việt Nam Cộng Hòa thay nhau bay thường xuyên trên vòm trời thủ đô. Dân chúng thấy Việt Cộng đến và thấy phi cơ uy hiếp trên trời đều lũ lượt dắt díu nhau lánh cư vào trong thành phố.

Ngay trong đêm mồng 2, lực lượng phản công của chánh phủ được tung ra. Hai đại đội của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù được đưa đến giải tỏa đài phát thanh. Nơi này được quân đội chiếm lại trước 0 giờ 30 sáng. Trong khi đó Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù chia quân làm hai cánh. Cánh thứ nhất gồm hai đại đội được phái tới giải tỏa cổng số 4 của Bộ Tổng Tham Mưu. Nhưng suốt ngày vẫn không giải quyết xong vì Việt Cộng núp trong khu nhà bằng gạch của Trường Sinh Ngữ Quân Đội và bắn ra dữ dội. Cánh thứ hai với hai đại đội còn lại tới bảo vệ đầu phi đạo Tân Sơn Nhất ở Bà Quẹo và ngăn chận Cộng quân xâm nhập khu hãng dệt Vinatexco.

Vào buổi trưa, toàn bộ Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù được đưa về phi trường Tân Sơn Nhất chờ lệnh. Liên Đoàn 5 Biệt Động Quân (BDQ) với bốn tiểu đoàn (Tiểu Đoàn 30, 33, 34 và 38) đang trấn đóng vòng quanh khu bán nguyệt từ Thủ Đức, Nhà Bè, Bình Chánh đến Hốc Môn. Đêm hôm đó, Liên Đoàn 5 nhận được lệnh phải gửi ngay hai tiểu đoàn Biệt Động Quân về giải cứu thủ đô. Tiểu Đoàn 30 và 38 Biệt Động Quân lập tức ra đi và họ đã tiến vào thành phố trước khi trời sáng. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân đến khu vực Hàng Xanh Xa Lộ lúc 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết. Tại đây, các binh sĩ Mũ Nâu này đã chạm súng dữ dội với Việt Cộng. Trong khi đó Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân xuất phát từ Nhà Bè vào 4 giờ sáng ngày mồng 2 Tết đến giải tỏa khu Phú Thọ, Trần Quốc Toản.

Vào lúc 06 giờ 30 cùng ngày Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ Vũng Tàu được không vận về Saigon mặc dù đơn vị này vừa hành quân ở Miền Trung mới về có hai ngày. Song song với Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến, Chiến Đoàn B gồm các Tiểu Đoàn 1 và 2 của Thủy Quân Lục Chiến đang ở Cai Lậy (thuộc tỉnh Định Tường) cũng được không vận về Saigon ngay vào gần chiều tối hôm đó.

Chiều mồng 2 Tết, người ta đã thấy những đám cháy bóc lên ngùn ngụt tại đường Nguyễn Kim gần sân vận động Cộng Hòa. Như vậy có nghĩa là cánh quân Việt Cộng phát xuất từ Phú Thọ Hòa tiến vào trung tâm thành phố đã không gặp trở ngại nào đáng kể. Khi tiến vào, Việt Cộng chỉ bắn quấy rối Chi Cảnh Sát Nguyễn Văn Thoại ở phía Nam trường đua, bắn vào trại Cảnh Sát Dã Chiến ở đường Trần Quốc Toản cùng các doanh trại của Tiểu Đoàn 10 Vận Tải và lực lượng Công Binh ở xung quanh.

Việt Cộng chiếm trường đua Phú Thọ, kiểm soát các khu vực quanh Trường Nữ Quân Nhân tại vườn Cao su cũ. Cánh quân này đã lan tràn vào khu vực đông dân cư ở khoảng đường Bà Hạt loang ra một khu rộng lớn từ chùa Từ Nghiêm đến chùa Ấn Quang có bốn đại lộ bao bọc là Nguyễn Tri Phương, Trần Quốc Toản, Lý Thái Tổ và Minh Mạng.

Đường Nguyễn Kim bị oanh kích vì Việt Cộng xuất hiện rất dông. Đám cháy này từ một điểm nhỏ lan tràn cháy cả một khu phố. Cũng vào buổi chiều mồng 2 Tết, người ta thấy Việt Cộng xuất hiện và đột nhập vào nhà thương Nhi Đồng, bắn vào hậu cứ Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh ở đường Lý Thái Tổ. Người ta còn thấy khoảng một trung đội Việt Cộng xuất hiện tại đường Sư Vạn Hạnh, Lý Thái Tổ và một số ít ẩn núp trong chùa Ấn Quang.

Như vậy người ta thấy rằng Việt Cộng tiến vào khu này là một khu vực đông dân cư lao động và cũng là nơi có chùa Ấn Quang từng phát xuất các đợt xuống đường chống chính phủ nhằm để nhen nhuốm lên một cuộc nổi dậy của nhân dân phát xuất từ đây lan tràn vào đô thị. Người dân đô thành trong ngày hôm ấy theo dõi từng tiếng súng nổ xa gần, từng hoạt động của các máy bay ở trên vòm trời và theo dõi tin tức trên radio.

Đài phát thanh Quốc Gia, khác với thường lệ, chỉ phổ biến những bản nhạc hùng binh, thỉnh thoảng chen vào một vài tin tức sốt dẽo. Vào buổi sáng, đài phát thanh đã truyền lệnh gọi các quân nhân nhập trại. Một vài quân nhân trên đường vào trại đã bị các phần tử Việt Cộng trà trộn trong dân chúng bắn hạ ngay ngoài đường. Tuy nhiên, một số đông quân nhân khác cũng đã vào được trại an toàn. Những quân nhân này đều được đại tướng tham mưu trưởng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cấp tưởng lục khen ngợi.

Vào buổi chiều, đài phát thanh loan tin chiến sự tại khu Hàng Xanh cho biết quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã gặt hái được một vài thắng lợi. Một tin khác được loan đi vào hồi 17 giờ 00 yêu cầu dân chúng Bà Quẹo tránh xa khỏi hãng dệt Vinatexco, nơi Việt Cộng tập trung và đóng bộ chỉ huy để quân đội sẽ oanh tạc vào đúng 18 giờ 00. Ngoài ra, loa phóng thanh cũng được dùng để kêu gọi toàn bộ lực lượng Việt Cộng trong khu vực này ra đầu hàng. Hãng dệt Vinatexco đã bị oanh tạc thiêu rụi vào giờ ấn định trên. Trước khi oanh tạc, Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù đã dồn Việt Cộng vào khu vực này. Quyết dịnh oanh tạc được ban ra vì sợ Việt Cộng lợi dụng đêm tối sắp đến để tăng cường thêm quân đánh vào phi trường Tân Sơn Nhất.

Cũng vào gần chiều tối ngày mồng 2 Tết, trực thăng võ trang đến xạ kích vào khu vực Trường Nữ Quân Nhân. Sau đó lực lượng bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa đến giải tỏa một khúc đường Nguyễn Văn Thoại chạy ngang khu trường đua do Việt Cộng kiểm soát.

Vào sáng mồng 3 Tết, tám tiểu đoàn tổng trừ bị đã có mặt tại đô thành. Các lực lượng này được phối trí để mở các cuộc phản kích như sau:

Tiểu Đoàn 6 và 8 Nhảy Dù giải tỏa cổng số 4 ở trại Trần Hưng Đạo. Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù bảo vệ đài phát thanh và làm lực lượng trừ bị. Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến đi giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo (lúc đầu là trách nhiệm của Thủy Quân Lục Chiến, nhưng sau đó được giao lại cho Nhảy Dù), cổng xe lửa số 2 và số 4 (Gia Định). Tiểu Đoàn 4 Thủy Quân Lục Chiến giải tỏa trại Cổ Loa và Phù Đổng. Tiểu Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến chận đường rút lui của Việt Cộng tại trại Cổ Loa. Tiểu Đoàn 30 Biệt Động Quân giải tỏa khu Hàng Xanh Xa Lộ. Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân giải tỏa khu Phú Thọ, Bà Hạt.

Trong ngày này, lực lượng Nhảy Dù đã hoàn tất nhiệm vụ giải tỏa cổng số 4 trại Trần Hưng Đạo ngay trong buổi sáng. Trực thăng võ trang đã phải oanh kích vào khu vực này gây thiệt hại về doanh trại cho Trường Sinh Ngữ Quân Đội, Trường Tổng Quản Trị, Trung Tâm Huấn Cụ và Thính Thị và một vài thiệt hại nhỏ cho các cơ sở khác kế cận. Cũng trong ngày hôm đó, các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến chiếm lại được các trại Cổ Loa và Phù Đổng. Cả hai nơi này đều bị Việt Cộng trấn giữ từ hôm xảy ra các trận đánh.