Tr.Tướng Phạm Quốc Thuần

Phạm Quốc Thuần (1926), nguyên là tướng lĩnh bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cấp bậc Trung tướng. Xuất thân từ trường Võ bị Liên quân. Trước khi gia nhập Quân đội, ông đã là một công chức của nhà nước Bảo hộ Pháp. Trong đời binh nghiệp ông đã theo thứ tự đi lên từ chức Trung đội trưởng, Đại đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn trưởng. Trước khi lên chức Tư lệnh Sư đoàn bộ binh, ông cũng đã từng là Tham mưu trưởng của Sư đoàn. Tương tự như vậy, trước khi lên làm Tư lệnh Quân đoàn, ông cũng đã là Tham mưu trưởng của Quân đoàn. Mặc dù cũng có những thời gian ông được chuyển sang lĩnh vực khác như Chỉ huy các cơ sở đào tạo nhân sự của quân đội… nhưng chỉ là một thời gian rất ngắn, rồi cũng nhanh chóng được chuyển trở về với chuyên môn của mình. Tuy nhiên, sau cùng ông vẫn đảm trách vai trò Chỉ huy trưởng Quân trường.
iểu sử & Binh ngiệp      phamquocthuan

Ông sinh ngày 31 tháng 8 năm 1926 trong một gia đình khá giả có cha là công chức tại tỉnh Hà Đông, Bắc phần. Năm 1945, ông tốt nghiệp Trung học Đệ nhất cấp chương trình Pháp với văn bằng Thành Chung. Cũng theo chương trình phổ thông của Pháp, năm 1948 ông tốt nghiệp Trung học Đệ nhị cấp với văn bàng Tú tài toàn phần (Part II). Ông theo học khóa 2 hành chính và tốt nghiệp năm 1950. Sau đó được Chính quyền Bảo hộ Pháp bổ nhiệm làm Quận trưởng quận Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây.
Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên của Quốc trưởng Bảo Đại, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam (là thành phần trong Quân đội Liên hiệp Pháp), mang số quân: 46/302.312. Theo học khoá 5 Hoàng Diệu trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 ông tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được chuyển về một đơn vị bộ binh giữ chức Trung đội trưởng thuộc Đại đội 4, Tiểu đoàn 18 Việt Nam đồn trú tại Khu chiến Phát Diệm, Ninh Bình.

Đầu năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy lên làm Đại đội trưởng Đại đội 4 kiêm Trưởng đồn Điền Hộ, Nga Sơn, Thanh Hoá. Sau đó chuyển sang làm Đại đội trưởng Đại đội 3 kiêm Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn Khinh quân 719, đồn trú tại Khu chiến Bùi Chu, Nam Định. Tháng 12 cuối năm, ông được thăng cấp Đại úy và được bổ nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 55 Việt Nam đồn trú tại Bình Lục, Phủ Lý thay thế Đại úy Đặng Văn Quang đi du học khoá Tham mưu tại trường Tham mưu Pháp. Sau khi Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954 được ký, ông được cử làm Trưởng phòng 3 Tiểu khu Phú Quốc.
Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Đầu năm 1955, ông được chuyển công tác về làm Trưởng phòng 3 Tiểu khu Gia Định. Tháng 5 cùng năm, ông được chuyển sang giữ chức Trưởng ban Đồn trú thuộc Phòng 3 Bộ Tổng Tham mưu. Cuối năm này, chuyển công tác đi nhận chức Trưởng ban Hành quân thuộc Phòng 3 Bộ Tư lệnh Đệ nhất Quân khu Nam Việt.

Tháng 3 năm 1956, ông được cử làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 33 thuộc Sư đoàn 13 Khinh chiến (Tiền thân của Sư đoàn 21 bộ binh). Ngày 26 tháng 10 năm 1959, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm

Đầu năm 1960, ông được cử làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 21 bộ binh (do Đại tá Trần Thiện Khiêm làm Tư lệnh), hoán chuyển nhiệm vụ với Thiếu tá Bùi Dinh trở về chỉ huy Trung đoàn 33. Tháng 6 cùng năm ông được tuyển theo học Anh ngữ tại Bộ chỉ huy 3 Tiếp vận. Sau đó được cử đi học khoá Chỉ huy & Tham mưu nhưng bị ngưng lại do xảy ra cuộc chính biến ngày 11-11-1960 (đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu bất thành), ông được chuyển ra miền Trung làm Tham mưu trưởng Sư đoàn 22 bộ binh do Đại tá Nguyễn Bảo Trị làm Tư lệnh. Tháng 11 năm 1961, ông tiếp tục được cử đi học khoá Chỉ huy & Tham mưu tại Hoa Kỳ. Tháng 6 năm 1962, về nước giữ chức Tham mưu trưởng Sư đoàn 5 bộ binh liên tục qua các vị Tư lệnh: Đai Tá Nguyễn Đức Thắng và Đại tá Nguyễn Văn Thiệu. Sau cuộc đảo chính Tổng thống Diệm, ngày 2 tháng 11 năm 1963 ông được thăng cấp Trung tá tại nhiệm.

Đầu năm 1964, ông chuyển về phục vụ tại Nha Bảo an do Thiếu tướng Dương Ngọc Lắm làm Tổng giám đốc. Tháng 9 cùng năm ông được điều đi làm Tham mưu trưởng Quân đoàn IV & Vùng 4 chiến thuật do Thiếu tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Tư lệnh. Ngày 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Tháng 2 năm 1965, ông được chuyển về Bộ Quốc phòng phụ tá quân sự cho Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu (Tổng trưởng). Tháng 7 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh thay thế Chuẩn tướng Trần Thanh Phong về làm Trưởng phòng 3 Bộ Tổng tham mưu. Qua năm 1966, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm (cùng với Chuẩn tướng Nguyễn Viết Thanh Tư lệnh Sư đoàn 7 bộ binh). Ngày 19 tháng 6 năm 1968, ông được thăng cấp Thiếu tướng.

Ngày 15 tháng 8 năm 1969, ông nhận lệnh bàn giao Sư đoàn 5 lại cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Hiếu. Ngay sau đó, đi nhận chức Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức thay thế Chuẩn tướng Lâm Quang Thơ đi làm Tư lệnh Sư đoàn 18 bộ binh. Tháng 8 năm 1971, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm. Tháng 4 năm 1973, ông được cử kiêm chức Chủ tịch Uỷ ban Liên hợp 2 bên của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 29 tháng 10 cùng năm, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3, hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Nguyễn Văn Minh về làm Chỉ huy trưởng Trường bộ binh. Ngày 1 tháng 11 năm 1974, ông chuyển ra Nha Trang nhận chức Chỉ huy Trường Hạ sĩ quan QLVNCH (Quân trường Đồng Đế), hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Dư Quốc Đống trở về làm Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3.
1975

Ngày 2 tháng 4, ông di tản khỏi Nha Trang theo Bộ tư lệnh Quân đoàn II và Quân khu 2 về Sài Gòn. Khuya ngày 29 tháng 4 năm 1975 rời Sài Gòn di tản ra khơi trên Tuần dương hạm Trần Quang Khải HQ-2 do Hải quân Trung tá Đinh Mạnh Hùng (sinh năm 1938, tốt nghiệp khoá 11 Trường Sĩ quan Hải quân Nha Trang) làm Hạm Trưởng.

Sau đó, ông được qua định cư tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ.
—————————————-
BÁCH KHOA TOÀN THƯ