Tr.Chiến Tết Mậu Thân-Part 1-2

Trận Chiến Tết Mậu Thân
Trung Tá : Phạm Văn Sơn
Phần – 1
Các nhà quân sử kim cổ Đông Tây đều ghi nhận đặc tính của binh pháp là quỷ trá kỳ xảo, tức là chiến pháp bao hàm ý nghĩa quyền mưu, chủ trương dùng tất cả mọi thủ đoạn để đi tới chiến thắng. Theo trên, người ta không thấy làm lạ nếu đôi bên giao tranh có những lối “công kỳ vô bị xuất kỳ bất ý” để bên này khai thác những sơ hở về một phương diện nào của bên kia. Liên hệ ít nhiều đến nguyên tắc chỉ đạo chiến tranh này mà đã được nhắc đến trong thiên Quân tranh của Tôn Tử, Lý Tế Xuyên trong sách “Việt điện u linh tập” cũng đưa ra nguyên tắc: Tọa đãi địch chí bất như tiên phát dĩ ách kỳ phong (ngồi chờ giặc đến không bằng đem quân đánh trước để chận mũi nhọn của địch).

Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) và công cụ của họ là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN) đã xuất toàn lực đánh lén Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào những ngày đầu Tết Mậu Thân trong năm 1968 trên khắp lãnh thổ Miền Nam khi họ đột ngột không giữ lời đề nghị ngưng chiến do chính họ đưa ra. Cộng Sản Bắc Việt cũng đã không nghĩ gì đến 3 ngày Tết Nguyên Đán, ngày truyền thống của dân tộc, những ngày đầm ấm nhất của xứ sở mỗi năm, hay sự yên vui của đồng bào để xum họp và cúng bái tổ tiên, một tập tục thiêng liêng từ ngàn xưa. Tuy mưu mô đã khéo, thuật xảo sắp đã hay, tiếng súng của Cộng Sản chỉ tạo được lợi thế bất ngờ trong vỏn vẹn ít tiếng đồng hồ ở thủ đô Saigon và một số thị trấn của Việt Nam Cộng Hòa. Tính chung, Cộng Sản đã thảm bại vì Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã phản ứng rất mau lẹ. Và ngược lại điều tai hại cho họ là đã đụng đầu với sự lạnh nhạt của đồng bào Miền Nam khắp nơi.

Kết quả của hai đợt tấn công đại quy mô với những cố gắng to lớn, từ đầu tháng Giêng đến cuối tháng 5 năm 1968 trên khắp chiến trường từ Quảng Trị tới Cà Mau là Việt Cộng (VC) đã bị đẩy vào chỗ chết ngót 60,000 cán binh, bị cầm tù 10,000, ra đầu hàng ngót 6,000 và mất trên 17,000 vũ khí. Trong khi đó, số tổn thất của VNCH về mọi thứ không tới 1 phần 10 những con số của Việt Cộng.

Trong cuộc “tổng nổi dậy” năm 1968 này, Cộng Sản đã phá hủy 50,000 căn nhà của dân, đem chết chóc đến cho 14,000 đồng bào đủ cả già trẻ gái trai và “vô sản hóa” 70,000 người đa số là dân lao động. Ngoài ra điều dã man chưa từng thấy trong lịch sử loài người là họ đã xua những lực lượng gồm 7 phần 10 con nít vào lò lửa chiến tranh và mở những cuộc pháo kích bừa bãi vào những khu gia cư nghèo khó, đông đúc không có lấy một cơ quan quân sự, để trả thù sự bất cộng tác của dân chúng. Cộng Sản dám làm tất cả, dùng bất cứ phương tiện gì dù có tàn ác nhất nếu để đạt đến mục tiêu, tức chiến thắng cho họ.

Trận Tổng Công Kích Đợt 1 của Việt Cộng đã xảy ra trong những ngày đầu năm Mậu Thân 1968. Để che dấu âm mưu này và để đánh lạc hướng, chiều ngày 20 tháng 1 năm 1968 nghĩa là trước cuộc tổng tấn công 10 ngày, sau những loạt trọng pháo mở màn, bộ đội Bắc Việt đã tấn công mạnh mẽ vào Khe Sanh.

Khe Sanh là một căn cứ chiến lược chặn ngang đường xâm nhập của quân Cộng Sản Bắc Việt vào Vùng I Chiến Thuật của VNCH. Căn cứ này nằm ở ngã ba biên giới Bắc Việt, Lào, và Nam Việt Nam, cách thượng lưu sông Bến Hải không xa và cách Cồn Tiên, nơi xảy ra trận đánh lớn vào giữa năm 1967 vào khoảng 30 km. Căn cứ Khe Sanh nằm trong một lòng chảo chung quanh núi cao vây bọc dài 2 km ngang 1 km. Nơi này có khoảng 6,000 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Hoa Kỳ trú đóng. Trong căn cứ có một phi trường làm đường liên lạc tiếp tế và vài tiền đồn quanh vùng là các ngọn đồi 881, 861, 558, và 950. Ở xa hơn về phía đông có căn cứ Carrol. Và cách đó không xa có tiền đồn là Làng Vei do một tiểu đoàn Dân Sự Chiến Đấu với sự giúp đỡ của cố vấn Hoa Kỳ trấn giữ.

Cuộc tấn công mở màn vào Khe Sanh đã khiến ngay từ lúc đầu khiến 20 binh sĩ TQLC Hoa Kỳ tử thương và 109 bị thương. Thoạt đầu quân Bắc Việt oanh kích dữ dội bằng trọng pháo và hỏa tiễn vào trại TQLC Hoa Kỳ tại căn cứ Carrol. Sau đó bộ đội Cộng Sản tấn công hai ngọn đồi 881 và 861. Các đơn vị của Trung Đoàn 26/3 (đọc là “Trung Đoàn 26 thuộc Sư Đoàn 3”) TQLC Hoa Kỳ đã chiến đấu dữ dội với các đơn vị thuộc sư đoàn 325 CSBV xuất hiện bao vây vùng thung lũng Khe Sanh. Dường như quân chính quy Bắc Việt đã dồn chừng 3 sư đoàn ở vùng phi quân sự và biên giới Lào để gián tiếp yểm trợ cho chiến trường Khe Sanh. Trước tình hình này, lệnh hưu chiến trong dịp Tết Nguyên Đán Mậu Thân trước định 48 giờ được lịnh rút xuống còn 36 tiếng, nghĩa là lệnh hưu chiến chỉ còn giá trị từ 18 giờ ngày 29 tháng 1/1968 đến 06 giờ ngày 31 tháng 1/1968.

Biện pháp phòng thủ hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị của miền Nam Việt Nam được đặt ra và ước lượng rằng quân số Việt-Mỹ lên đến 50,000 người để phòng ngừa một cuộc đánh úp vào hai tỉnh này. Sư Đoàn Nhảy Dù của VNCH được lệnh tăng cường vùng hỏa tuyến với quân số một chiến đoàn. Một số các đơn vị chủ lực Hoa Kỳ như Sư Đoàn 1 Không Vận cũng được đưa ra Vùng 1 Chiến Thuật để giúp VNCH phòng chống lại sự xâm nhập của CSBV.

Nhưng trước Tết, Sư Đoàn Nhảy Dù mới gởi ra vùng hỏa tuyến chỉ được các Tiểu Đoàn 2 và 9. Mãi tới ngày mồng 2 Tết, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 với Tiểu Đoàn 7 mới được không vận ra Huế. Sư Đoàn 1 Không Vận cũng từ An Khê kịp ra đóng ở một khu vực cách xa thành phố Huế. Các lực lượng này chỉ là những lực lượng trừ bị cho chiến trường Khe Sanh nên chỉ nằm đợi tại chỗ, không tham gia vào những hoạt động khác.

Các chiến lược và chiến thuật gia cho rằng Việt Cộng chỉ có khả năng mở những trận quy mô dựa vào những căn cứ xuất phát tại các vùng biên giới nhưng sẽ thất bại. Với những sự phối trí quân lực như trên thì chắc hẳn địch chẳng có thể làm gì nên chuyện theo đà tiến triển của tình hình. Còn tại nội địa các nhà quân sự ước tính rằng địch quân chỉ có khả năng mở những cuộc tấn công ở cấp liên tiểu đoàn nhằm gây tiếng vang. Việt Cộng chỉ có thể đánh trong một thời gian chớp nhoáng nếu họ không muốn bị tiêu diệt. Người ta cảm thấy lạc quan đối với tình hình quân sự chung trên toàn quốc qua các trận đánh đã xảy ra ở Cồn Tiên, Dakto, Lộc Ninh và Phước Quả vào năm 1967 mà chiến thắng cuối cùng đã nghiêng về phía Việt Nam Cộng Hòa cùng các lực lượng đồng minh.

Tuy nhiên, những người am hiểu thời cuộc lại cảm thấy lo ngại. Vấn đề xây dựng nông thôn không tiến triển. Các vùng nông thôn phần lớn nằm trong sự khống chế của Việt Cộng. Các cơ sở hạ tầng của Việt cộng vẫn còn nguyên vẹn và dường như còn phát triển mạnh tới những vùng làng mạc phụ cận và ngoại ô của các thành phố và đô thị, bằng chứng là những vụ ám sát và khủng bố được gia tăng nhằm vào các viên chức xã, ấp, phường, khóm ở các vùng này trong những tháng về cuối năm 1967. Lợi dụng những vụ ám sát đê hèn này thường ít được dư luận chú ý đến, bằng một cách âm thầm và lặng lẽ, Việt Cộng đã len lỏi về đóng quân một cách bí mật ở gần các mục tiêu dân sự và quân sự ở miền Nam Việt Nam.

Một sự an ninh giả tạo đã được diễn ra tạo nên những sự dễ dãi hoạt động và di chuyển cho các phần tử Việt Cộng. Vào những ngày giáp Tết, ngoài một Khe Sanh sôi động, tình hình chung trên toàn quốc hoàn toàn yên tĩnh. Các đơn vị binh sĩ được hưởng phép nghĩ Tết dễ dàng, trực gác theo như thông thường. Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc cho dân chúng tùy theo an ninh từng địa phương được phép đốt pháo trong 4 ngày Tết, từ ngày 30 đến hết ngày mồng 3. Nhưng tiếng pháo đã bất chấp luật lệ bắt đầu nổ rải rác trong đô thành Saigon Chợ Lớn từ 20 tháng Chạp nghĩa là trước cả ngày tiễn Ông Táo lên chầu trời. Nghĩa là dân chúng thản nhiên với thời cuộc sửa soạn đón Xuân và vui Xuân.

Ngày Tết đến, người dân thành thị đã đón mừng Xuân Mậu Thân 1968 với tiếng pháo liên hồi. Tết Mậu Thân là Tết nhiều pháo nổ hơn mọi Tết khác rất nhiều. Giới giàu có, giới mại bản đốt những tràng pháo năm bảy thước và đốt rất nhiều. Giới ít tiền cũng tranh hơi cố gắng bỏ tiền đốt một vài tràng pháo đón Xuân lấy hên.

Đột nhiên xen lẫn tiếng pháo mừng Xuân, tiếng súng Việt Cộng bùng nổ. Hậu phương đang thanh bình, trong giây phút biến thành tiền tuyến. Lợi dụng việc bỏ giới nghiêm và lệnh hưu chiến do chính họ long trọng ưng thuận, Việt Cộng đã mở cuộc tổng công kích trên toàn thể miền Nam tự do để đánh vào các lực lượng của quân đội VNCH trong giờ phút uy linh đón mừng Xuân mới.

Đêm 30 Tết, tức ngày 29 tháng 1/1968, Việt Cộng đồng loạt tấn công vào 5 thị xã thuộc Vùng 2 Chiến Thuật:

Thị xã Qui Nhơn lúc 4 giờ 10.

Thị xã Kontum lúc 2 giờ 00.

Thị xã Pleiku lúc 4 giờ 40.

Thị xã Darlac lúc 1 giờ 30.

Thị xã Nha Trang lúc 0 giờ 30.

Đồng thời, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 lúc 3 giờ 40 sáng.

Cũng trong đêm này, Việt Cộng đột kích vào Chi Khu Hội An, pháo kích vào thị xã Quảng Trị, phi trường Đà Nẵng, phi trường Non Nước về phía Nam Đà Nẵng khoảng 4 km và pháo kích tấn công nhiều đồn bót lẻ tẻ trên toàn quốc. Cả 5 thị xã kể trên và Tổng Hành Dinh Quân Đoàn 1 đều bị Việt Cộng lọt vào. Tuy nhiên tại Qui Nhơn, Nha Trang và Pleiku áp lực Việt Cộng đã được giải tán nhanh chóng. Tổng hành dinh Quân Đoàn 1 cũng đẩy lùi địch quân trong vài giờ đồng hồ. Các lực lượng Việt Cộng tại các thị xã Ban Mê Thuột và Kontum cũng bị đẩy lui ngay. Tuy nhiên, tại hai thị xã này, Việt Cộng đã bám sát và tạo áp lực mạnh quanh vùng. Sau nhiều ngày chiến đấu, quân đội VNCH mới hoàn toàn làm chủ tình hình.

Đêm mồng 1 Tết, tức 24 giờ sau các cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ miền Cao nguyên và miền Trung, Việt Cộng mở các cuộc tấn công vào đô thành Saigon – Chợ Lớn và các tỉnh lỵ miền Nam. Khi xảy ra vụ trận tấn công đêm giao thừa, chính quyền trung ương VNCH đã thông báo ngay cho các địa phương biết để kịp phòng bị. Vào sáng mồng 1 Tết, Đài phát thanh quốc gia Saigon tố cáo Việt Cộng vi phạm trắng trợn việc hưu chiến trong dịp Tết và ban bố bãi bỏ lệnh này.

Dân chúng Miền Nam đang say sưa trong cái Tết dân tộc, nên ít người biết đến vụ vi phạm lịnh hưu chiến của Việt Cộng. Tại các tỉnh nhỏ, nhà cầm quyền đã dễ dàng hơn, trong việc kêu gọi quân nhân nghỉ phép trở lại trại để gia tăng việc phòng thủ. Tại thủ đô Saigon, chiều tối ngày mồng 1, các giới chức quân sự theo dõi tình hình và ban lệnh cho các cơ quan và đơn vị đề phòng. Nhưng lệnh này quá cấp bách khiến việc kêu gọi những quân nhân nghỉ phép không thể nào thi hành được.

Nhưng việc gì đến đã đến. Một cuộc tổng công kích của Việt Cộng trên toàn lãnh thổ VNCH đã quả thật sự xảy ra. Việt Cộng đã đánh vào các đơn vị VNCH trong lúc họ không chuẩn bị, hoặc chỉ vừa mới kịp đề phòng do những trận đánh đầu tiên xảy ra. Tính theo kế hoạch tổng công kích, Việt Cộng đã đồng loạt mở các cuộc tấn công và đột kích vào hầu hết các tỉnh lỵ và thị trấn trong thời gian như sau:

Tại Vùng 1 Chiến Thuật

Huế bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ

Quảng Trị bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

Quảng Tín bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

Quảng Ngãi bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 04 giờ

Tại Vùng 2 Chiến Thuật

Bình Thuận bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 3 giờ 25

Tuyên Đức bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 Tết lúc 02 giờ

Tại Vùng 3 Chiến Thuật

Thủ đô Saigon – Chợ Lớn – Gia Định bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 02 giờ.

Bình Dương bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04g25

Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 25 Bộ Binh bị tấn công lúc 08g30 sáng mồng 2 Tết

Biên Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ

Long Khánh bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 Tế lúc 01 giờ

Tại Vùng 4 Chiến Thuật

Phong Dinh bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 Tết lúc 03 giờ

Vĩnh Long bị tấn công đêm mồng 1 rạng mồng 2 lúc 03g30

Kiến Hoà bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 03 giờ

Định Tường bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 04 giờ

Kiên Giang bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 02g40

Vĩnh Bình bị tấn công đêm mồng 2 rạng mồng 3 lúc 4g15

Kiến Tường bị tấn công đêm mồng 4 rạng mồng 5 lúc 04g15

Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44 bị tấn công đêm mồng 6 rạng mồng 7 lúc 1g25

Gò Công bị tấn công đêm mồng 7 rạng mồng 8 âm lịch lúc 2g35

Bạc Liêu bị tấn công đêm 12 rạng 13 âm lịch, tức ngày 10/2/68

Như vậy trong 44 tỉnh lỵ, Việt Cộng đã tấn công vào 28 nơi. Cuộc tấn công của Việt cộng kể ra cũng khá linh hoạt, tuy không diễn ra trong một lúc nhưng khoảng cách của các trận đánh ở các tỉnh lỵ không quá rời rạc.

Tính ra như vậy đêm 30 Tết, Việt Cộng mở được 5 cuộc tấn công vào các tỉnh Cao Nguyên và miền Trung. Đêm mồng 1 Tết, Việt Cộng mở được 8 cuộc tấn công vào các tỉnh lỵ và thị xã trong đó có đô thành Saigon – Chợ Lớn – Gia Định.

Với 8 cuộc tấn công này trong đó có 4 thành phố Huế, Quảng Trị, Quảng Tín và Quảng Ngãi thuộc Vùng 1 Chiến Thuật, thành phố Phan Thiết thuộc vùng 2 Chiến thuật và 2 thành phố Cần Thơ, Vĩnh Long thuộc Vùng 4 Chiến Thuật. Người ta nhận thấy rằng trong 2 ngày liên tiếp tất cả các tỉnh lỵ thộc Vùng 1 Chiến Thuật đều bị đánh. Các tỉnh lỵ thuộc vùng 2 Chiến Thuật cũng bị đánh gần hết. Riêng Vùng 4 Chiến Thuật mới bị chóm đánh vào 2 tỉnh Cần Thơ và Vĩnh Long.

Đêm mồng 3 Tết, Việt Cộng lại đánh vào 8 tỉnh lỵ khác gồm 5 thành phố Kiến Hòa, Định Tường, Gò Công, Kiên Giang, Vĩnh Bình thuộc vùng 4 Chiến Thuật, 2 thành phố Bình Dương, Biên Hòa thuộc Vùng 3 Chiến Thuật, và thành phố Tuyên Đức thuộc Vùng 2 Chiến Thuật.

Qua ngày mồng 3 Tết, tức ngày 1 tháng 2/1968, hoạt động của Việt Cộng trên toàn quốc có phần suy giảm tuy họ vẫn bám sát được vào một vài thành phố như Saigon, Huế, Ban Mê Thuột, Kontum, Mỹ Tho và Vĩnh Long. Còn tại các nơi, các phần tử Việt Cộng thất tán trong các khu dân cư và đang bị tiêu diệt.

Ngày mồng 4 Tết, Việt Cộng mở một cuộc tấn công yếu ớt vào thị xã Kiến Tường và một cuộc tấn công khác vào các đơn vị trú phòng tại Long Khánh nhưng đều bị đẩy lui ngay.

Ngày mồng 5 Tết, hoạt động của Việt Cộng tại các vùng Chiến thuật suy giảm rõ rệt. Riêng tại Huế địch vẫn còn chiếm đóng và hoạt động mạnh. Tại thủ đô Siagon, các phần tử Việt Cộng trà trộn trong khu dân cư đang bị thanh toán lần lần.

Ngày mồng 5 và 6 Tết, Việt Cộng còn mở những cuộc tấn công muộn vào tỉnh lỵ Gò Công, Bộ Tư Lệnh Biệt Khu 44, nhưng không gây được sự thiệt hại nào đáng kể.

Ngày mồng 8 âm lịch, tức ngày 6 tháng 2 năm 1968, tỉnh Thừa Thiên vẫn được đáng chú ý hơn cả, tiếp đến là đô thành Saigon – Chợ Lớn và Phong Dinh. Tại Phong Dinh trận chiến đã diễn ra trong 2 đợt: đợt đầu kéo dài trên một tuần lễ và đợt thứ 2 vào đêm 14 rạng ngày 15 tháng 2/1968. Tại các nơi khác, Việt Cộng tiếp tục duy trì các cuộc pháo kích và khuấy rối đặc biệt là Vùng 1 và Vùng 4 Chiến Thuật.

Ngày 7 tháng 2/1968, Việt Cộng lần đầu tiên xử dụng chiến xa xuất phát từ biên giới Lào, vượt quốc lộ 9 tấn công căn cứ Làng Vei gần Khe Sanh khiến trại này bị thất thủ vào lúc 18 giờ 40. Quân đồn trú chỉ còn 72 người rút lui về Khe Sanh, số còn lại 316 người coi như chết và mất tích. Trong khi đó, Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ tại Huế đã tái chiếm một phần lớn khu vực hữu ngạn sông Hương. Việt Cộng phải rút ra cố thủ tại vùng ngoại ô.

Sáng ngày 10 tháng 2/1968, Việt Cộng đột nhập thị xã Bạc Liêu đốt trên 1,000 căn nhà của dân chúng. Tại Huế, Việt Cộng còn duy trì áp lực tại vùng Cửa Hữu và khu vực Bắc cầu Bạch Hổ. Các thị xã và thị trấn khác đều được giải tỏa. Tại đô thành Saigon – Chợ Lớn, quân đội VNCH tiếp tục mở các cuộc lục soát trong nội thành và hành quân tảo thanh vùng ven độ. Các lực lượng Việt Cộng lần lượt rút ra xa đô thành.

Tình hình Khe Sanh cũng yên tĩnh sau vụ thất thủ Làng Vei.
Phần-2

Ngoài 28 tỉnh lỵ và thị trấn bị Việt Cộng tấn công, 18 tỉnh lỵ còn lại –trừ một vài nơi yên tĩnh– hoàn toàn đều bị pháo kích và bắn quấy rối. Tình hình liệt kê theo từng tỉnh lỵ được ghi nhận như sau:

Ninh Thuận: hoàn toàn yên tĩnh.

Phú Yên: thành phố yên tĩnh, Việt Cộng tấn công một vài đồn bót quanh tỉnh.

Phú Bổn: hoàn toàn yên tĩnh.

Lâm Đồng: thành phố yên tĩnh, Việt Cộng bắn quấy rối vào khu MACV ở Quận Di Linh ngày 9/2/1968.

Tây Ninh: pháo kích tỉnh lỵ ngày 6/2/1968.

Long An: pháo kích tỉnh lỵ ngày 10/2/1968.

Hậu Nghĩa: pháo kích một vài địa điểm trong tỉnh.

Bình Long: hoàn toàn yên tĩnh.

Phước Tuy: hoàn toàn yên tĩnh.

Phước Long: pháo kích ngày 7/2/1968.

Kiến Phong: pháo kích thị trấn Cao Lãnh ngày 2/2/1968.

Ba Xuyên: pháo kích phi trường Sóc Trăng và bắn quấy rối tỉnh lỵ.

Sa Đéc: pháo kích ngày 10/8/1968.

Châu Đốc: pháo kích tỉnh lỵ ngày 31/1/1968 và nhiều nơi khác.

An Xuyên: pháo kích và bắn quấy rối tỉnh lỵ ngày 31/1/1968, 6/2/1968.

Chương Thiện: hoàn toàn yên tĩnh.

An Giang: hoàn toàn yên tĩnh.

Quảng Đức: hoàn toàn yên tĩnh.

Bình Tuy: hoàn toàn yên tĩnh.

So với những thành phố bị tấn công, những tỉnh lỵ này đều là những thị trấn nhỏ kém phần quan trọng Việt Cộng đã trừ ra không đánh. Có lẽ họ cho rằng nếu làm chủ tình hình những thành phố quan trọng khác thì những nơi này sẽ bất chiến tự nhiên thành. Do đó, họ lấy hết lực lượng địa phương của các tỉnh trên phối hợp với chủ lực quân dồn đánh vào những tỉnh lỵ được chọn làm mục tiêu. Hơn nữa, hầu hết các đồn bót quận lỵ đều không bị đánh cũng vì họ dồn toàn thể nỗ lực vào việc đánh chiếm các thành phố. Họ coi các đồn bót quận lỵ là những mục tiêu phụ. Nếu chiếm được trọn vẹn các mục tiêu chính là thành phố, những mục tiêu phụ này đương nhiên bị cô lập và bị thanh toán.

Cuộc tổng công kích của Việt Cộng kéo dài non hơn 2 tuần lễ và được coi như chấm dứt. Vì các hoạt động của họ cứ mỗi ngày một suy giảm do các cuộc hành quân phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và do chính họ tự rút các lực lượng bị hao tổn nặng nề ra để nghỉ ngơi và để bổ sung chỉnh đốn lại. Nhưng vào tối thứ Bảy ngày 17 tháng 2/1968 rạng ngày Chủ nhật, Việt Cộng lại tập trung lực lượng cố gắng mở một trận tổng công kích mới. Đợt tấn công này cũng rải rác ở nhiều điểm và đồng khởi cùng một lúc như đợt tấn công vào dịp Tết Mậu Thân. Nhưng không nghiêm trọng và kéo dài bằng đợt trước.

Việt Cộng có khả năng quy tụ quân ở quanh các thành phố nhưng cuộc tấn công hôm 18 tháng 2/1968 phần lớn chỉ là pháo kích. Cuộc pháo kích nhằm vào 47 thị trấn cùng các cơ sở của quân đội đồng minh. Như vậy khác với lần trước, lần này Việt Cộng hướng đánh vào các cơ quan của quân đội đồng minh không như lần trước chỉ riêng vào quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau các vụ pháo kích, có một vài vụ tấn công bằng bộ đội. Đó là các vụ tấn công vào vùng cầu Bình Lợi, Thủ Đức, vùng Tân An, Bắc Gò vấp, Định Tường, Kiến Hòa, Châu Đốc và quan trọng hơn hết là cuộc tấn công vào tỉnh lỵ Phan Thiết.

Cuộc pháo kích đáng chú ý nhất là vụ vào thủ đô Saigon. các cơ sở bị pháo kích gồm căn cứ Tân Sơn Nhất xảy ra hồi 1 giờ 10 sáng, sau đó lúc 1 giờ 20 vào Phái Bộ Viện Trợ Hoa Kỳ ở Việt Nam tại phi trường Tân Sơn Nhất, Nha Cảnh Sát Đô Thành trên đường Trần Hưng Đạo, đài radar Phú Lâm.

Ngày 25 tháng 2/1968, lúc 2 giờ 25, Việt Cộng pháo kích và đột nhập vào quân y viện tỉnh lỵ An Xuyên. Nhưng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã giải tỏa áp lực lúc 4 giờ sáng. Cũng trong những ngày này, một lực lượng Việt Cộng đông đảo muốn tái đột nhập đô thành Saigon – Chợ Lớn – Gia Định gây áp lực tại vùng Hóc Môn thuộc Tây bắc thủ đô và vùng Phú Thọ Hòa ở phía Tây. Nhưng áp lực họ tạo ra đối với thủ đô không có gì là nguy hiểm. Cùng ngày 25 tháng 2/1968, quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã làm chủ tình hình tại Huế sau 26 ngày binh biến.

Để hỗ trợ cho vụ tổng công kích, Bắc Việt đã xâm nhập vũ khí, đạn dược một cách ồ ạt và táo bạo vào Miền Nam bằng cả đường biển. Bằng cớ là ngày 29 tháng 2/1968, ngay trong một lúc khoảng từ 1 giờ đến 3 giờ, Hải Quân Việt-Mỹ đã chặn bắt được 3 tàu bọc sắt chở súng của Việt Cộng từ Bắc Việt vào. Ba chiếc tàu sắt này, một bị bắt gặp tại cửa Đức Phổ, Quảng Ngãi, một tại cửa Bồ Đề thuộc tỉnh An Xuyên và một tại Đầm Văn thuộc tỉnh Khánh Hòa.

Khi cả 3 chiếc tàu bị chặn xét, họ đã nổ súng chống trả. Hai chiếc ở ngoài khơi Quảng Ngãi và An Xuyên bị bắn chìm tại chỗ. Chiếc ở ngoài khơi Nha Trang bị săn đuổi đã chạy đâm vào bờ phát nổ. Tại chiếc tàu bị bắn chìm ở Đức Phổ, quân đội Việt Nam Cộng Hòa tịch thu được 645 súng trường, 45 tiểu liên, 12 trung liên và 1 đại liên. Trên chiếc tàu bị hạ tại Nha Trang, quân đội tịch thu 40 B-40, 28 AK-50 và nhiều thùng âu dược của Trung Cộng và Đông Đức. Trên tàu để lại 11 xác chết. Kế đến ngày 1 tháng 3/1968, lực lượng Hải Quân Việt-Mỹ đánh chìm 2 ghe và bắt một chiếc khác nguyên vẹn. Cả 3 ghe này đều chở đầy vũ khí và đạn được.

Vào tối ngày 5 tháng 3/1968, Việt Cộng lại mở cuộc tấn công mới vào nhiều thành thị và các cơ sở của quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Đây là cuộc tấn công thứ ba có tính cách đồng loạt kể từ cuộc tấn công đầu tiên ngày Tết. Trong lần này, vùng Hậu Giang bị tấn công nhiều nhất. Cuộc tấn công nặng nhất là vào tỉnh lỵ Quản Long (tức tỉnh Cà Mau). Trong ngày này, lần đầu tiên Việt Cộng pháo kích vào phi trường Cam Ranh làm hư hại nhẹ đường bay. Các cuộc tấn công về sau này đều không có hiệu lực. Việt Cộng cốt đánh để duy trì tiếng vang đối với quốc tế và làm sáo trộn cuộc sống bình thường của dân chúng Miền Nam Việt Nam.

Để đáp ứng chiến trường Khe Sanh có thể trở nên nghiêm trọng, ngày 6 tháng 3/1968 Đại Tướng Westmoreland, Tư Lệnh Lực Lượng Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã lập một Bộ Chỉ Huy tại Vùng 1 Chiến Thuật nhằm trợ giúp vào việc chỉ huy và điều khiển các đơn vị Mỹ tại vùng giới tuyến. Bộ chỉ huy này do Tướng Cushman làm tư lệnh và được gọi là Quân Đoàn Lâm Thời tại Việt Nam.

Tại thủ đô Saigon cũng như các tỉnh, chính quyền quốc gia đã dần dần tái lập được sinh hoạt bình thường. Vật giá sinh hoạt nhân ngày biến cố gia tăng không rút xuống được. Người dân thời loạn cũng quen với thực tại và chấp nhận thời cuộc. Dù sao đối với cuộc tổng công kích đầu Xuân Mậu Thân, người dân đã chưa vội bàn đến quân đội VNCH và Việt Cộng ai thắng ai bại. Một điều hiển nhiên là một gánh nặng xã hội đã đè nặng lên vai chính quyền miền Nam Việt Nam với một số lượng người khổng lồ không nhà cửa chịu cảnh bơ vơ thiếu thốn đủ thứ.

Cũng kể từ thượng tuần tháng 3/1968, quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh đã làm chủ chiến trường, liên tiếp mở ra các cuộc hành quân tảo thanh. Một cuộc hành quân đại quy mô được tổ chức ngày 11 tháng 3/1968 để nối tiếp cho chiến dịch Trần Hưng Đạo được đặt ra cấp bách tại thủ đô vào dịp Tết. Cuộc hành quân này được đặt tên là “Quyết Thắng.” Khoảng 50,000 binh sĩ thuộc các đơn vị của 6 sư đoàn và 2 chiến đoàn đã tham dự cuộc hành quân này tại năm tỉnh quanh thủ đô. Đó là các tỉnh Gia Định, Long An, Biên Hòa, Bình Dương và Hậu Nghĩa.

Phía Việt Nam Cộng Hòa, tham dự cuộc hành quân gồm có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 5 và Sư Đoàn 25 Bộ Binh, một chiến đoàn Nhảy Dù, một chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến, một đơn vị Biệt Động Quân và một số Cảnh Sát. Về phía Hoa Kỳ có các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9 và Sư Đoàn 25. Kết quả của chiến dịch này không lấy gì làm tốt đẹp vì chủ lực của Việt Cộng đã lẩn trốn để tránh né các cuộc chạm súng.

Xa hơn nữa một chiến dịch thứ hai có tính cách đại qui mô được mở ra tại vùng Hậu Giang là chiến dịch “Trương Công Định.” Thêm vào đó, tại vùng giới tuyến các cuộc hành quân Lam Sơn 192, 193 và mang số kế tiếp được liên tiếp khai diễn tại Cao Nguyên, mở cuộc hành quân MacArthur với sự hợp tác giữa Sư Đoàn 4 Bộ Binh Hoa Kỳ và các lực lượng thuộc Khu 23 Chiến thuật. Tại các tỉnh Quảng Nam – Quảng Tín có cuộc hành quân Wallowa Wheeler. Tại tỉnh Quảng Ngãi có cuộc hành quân Musoatine, v.v… Đây là những cuộc hành quân có tính cách thông thường.

Về phía Việt Cộng, từ đầu Xuân Mậu Thân qua các đợt tấn công lực lượng của họ bị thiệt hại lớn lao, nhưng nhờ có một nguồn nhân lực dồi dào từ ngoài Bắc vào để bổ sung nên khả năng tham chiến của họ vẫn giữ được một cách khả quan trên khắp các mặt trận.

Theo một bản ước tính, lực lượng Cộng Sản tính từ ngày mở cuộc tổng công kích 29 tháng 1/1968 đến ngày 29 tháng 2/1968 được xác nhận trước ngày tổng công kích là vào khoảng 323,500 người. Số tổn thất của họ được ước lượng trong thời gian trên là khoảng 45,000 người. Con số tổn thất này được phân loại như sau:

18,600 chết: gồm cán binh thuộc các đơn vị tác chiến

4,000 chết: gồm cán binh thuộc các cơ quan hậu cần

12,400 chết: gồm các thành phần du kích

5,000 chết: gồm các thành phần cán bộ chính trị: 5,000.

5,000 chết: gồm các thành phần phụ lực khác

Như thế, chỉ trong vòng một tháng chiến đấu, có 45,000 quân Cộng Sản đã bị tiêu diệt trong các cuộc chiến đấu phản công của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ.

Trừ số tổn thất từ ngày tổng công kích, quân số còn lại của Việt Cộng –tính cho đến ngày 29 tháng 2/1968 là:

110,600 cán binh tác chiến

33,700 cán bộ tham mưu và chỉ huy hậu cần

62,200 quân du kích (riêng rẻ)

79,000 cán bộ chính trị

Vì vậy, cho đến cuối tháng 2 năm 1968, lực lượng Cộng Sản trong cuộc tổng công kích mùa Xuân này đã còn lại khoảng 283,500 người. Với quân số này, Việt Cộng có đến 97 tiểu đoàn cùng với 18 đại đội trực tiếp tham chiến. Họ được phân chia ra như sau:

Vùng 1 Chiến Thuật: 35 tiểu đoàn Việt Cộng cùng 18 đại đội biệt lập

Vùng 2 Chiến Thuật: 28 tiểu đoàn Việt Cộng

Vùng 3 Chiến Thuật: 15 tiểu đoàn Việt Cộng

Vùng 4 Chiến Thuật: 19 tiểu đoàn Việt Cộng

Trước khi mở cuộc tổng công kích, Việt Cộng đã có chuẩn tị trước. Trong trường hợp không thành công, họ sẽ rút các đơn vị chiến đấu ra ngoài và tiếp tục bao vây lỏng các thị trấn. Trong khi đó, các đơn vị Việt Cộng rút ra được bổ sung và nghỉ ngơi, đồng thời tiếp tục tấn công cục bộ tại một vài thị xã để duy trì áp lực và làm cho quân đội VNCH phải dẫn quân đi khắp nơi để giữ. Và cứ như thế, kể từ thượng tuần tháng 3/1968, Việt Cộng đã áp dụng phương pháp duy trì áp lực này bằng những trận pháo kích thất thường và những trận bộ chiến nhỏ không đáng kể.

KẾ HOẠCH TỔNG CÔNG KÍCH – TỔNG KHỞI NGHĨA CỦA VIỆT CỘNG

Chiến dịch tổng công kích của Việt Cộng vào dịp Tết Mậu Thân 1968 đã được chuẩn bị khá tỉ mỉ và theo ước tính của phía Việt Cộng thì thế nào cũng thành công. Sự thật cho thấy cuộc tổng công kích đã thất bại. Đó là cũng vì Việt Cộng quá chủ quan trên nhiều phương diện, nhất là về phương diện tin ở sự hưởng ứng của dân chúng Miền Nam.

Bắt nguồn từ mùa Xuân 1967, lúc đó nhà cầm quyền Hà Nội thấy rằng hỏa lực của Hoa Kỳ quá mạnh khiến họ không thể mở được những trận đánh quyết định như hồi thời chống Pháp. Nhà cầm quyền Hà Nội đã phải duyệt lại chiến lược trường kỳ của họ trước tình thế ấy và cho rằng cứ tiếp tục chiến đấu trường kỳ thì kết cục cũng sẽ chẳng đi đến đâu. Đó cũng là quan điểm của một phái đoàn bí mật gồm các chuyên gia quân sự của các nước Bắc Cao Ly (Bắc Hàn), Trung Cộng và Cuba. Phái đoàn này đã đi thăm chiến trường Miền Nam và cho rằng Việt Cộng không thể chịu đựng lâu dài hơn được.

Vì thế, Cục Chính Trị (bộ chính trị) Miền Bắc đã yêu cầu chiến lược trường-kỳ cần phải được sửa đổi. Và Nghị Quyết 13 đã được ban hành với lời kêu gọi đạt đến chiến thắng trong thời gian ngắn nhất. Trong khi ấy, ở chiến trường miền Nam, Đại Tướng Cộng Sản Nguyễn Chí Thanh (Xứ Ủy Nam Bộ, kiêm tư lệnh quân đội Cộng Sản tại Miền Nam) bị thương và chết trong một lần dội bom của pháo đài B-52 Hoa Kỳ. Tháng 7 năm 1967, các giới chức lãnh đạo Cộng Sản ở Hà Nội mở phiên họp. Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp được giao trách nhiệm phát họa kế hoạch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ miền Nam vào Tết Mậu Thân.

(Ghi Chú: Theo các tài liệu quân sử Tây Phương, vào mùa Hè 1967 trong một phi vụ dội bom của pháo đài B-52 Hoa Kỳ, Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh bị mảnh bom đánh trúng lồng ngực, vết thương rất nặng. Cộng quân bí mật mang tướng Thanh qua ngã đường Nam Vang (Phnom Penn, thủ đô Cam Bốt) để về Hà Nội chữa trị. Nhưng vết thương ở ngực quá nặng, và thời gian không cho phép. Tướng Nguyễn Chí Thanh chết ngày 6 tháng 7 năm 1967. Người kế vị lên thay thế ông là Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp, một “kỳ phùng địch thủ” của ông Thanh, và cũng là người phát họa chiến dịch tổng tấn công trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam vài tháng sau đó. –PCL).

Từ đầu tháng 8 năm 1967, các cán bộ Việt Cộng đã được hướng dẫn về chiến dịch Đông Xuân 1967-68. Tài liệu học tập căn bản cho chiến dịch này được mệnh danh là “Nhận rõ tình hình mới và nhiệm vụ mới,” và đã được phổ biến rộng rãi dưới nhiều hình thức khác nhau.

Một bản tài liệu này đã được tìm thấy tại tỉnh Tây Ninh ngày 25 tháng 11/1967 gồm 10 trang chữ in. Ngày ghi trong tài liệu là 1 tháng 9/1967. Bản tài liệu này cũng như các bản tài liệu khác của Việt Cộng đã được in trên giấy báo khổ sách nhỏ và được ngụy trang ngoài bìa thành một cuốn nghiên cứu giáo lý đạo Phật, tên sách là “Tế Độ Chúng Sinh” của Thượng Tọa Thích Minh Tâm, nhà xuất bản Lục Hòa Tăng. Bên trong tài liệu ghi rõ “Tài liệu học tập tình hình mới nhiệm vụ mới” cho các cán bộ sơ cấp, đảng viên và quần chúng cảm tình viên.

Phân tách tài liệu học tập này, người ta nhận thấy có 4 phần dáng kể như sau:

1. Mục tiêu cấp thời của Việt Cộng: dồn mọi nỗ lực đánh bật Mỹ ra khỏi Việt Nam để thành lập một chính phủ liên hiệp trong đó Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẽ được đóng vai trò chủ yếu.

2. Các cán bộ và cán binh Việt Cộng phải thực hiện ba nhiệm vụ quan trọng sau đây: a) phá hoại Hoa Kỳ về phương diện quân sự và chính trị, (b) phá hoại Việt Nam Cộng Hòa bằng cách làm tan rã quân đội và làm cho quần chúng không tin tưởng ở chính quyền quốc gia, (c) đẩy mạnh cuộc đấu tranh chính trị bằng cách xúi dục người dân nổi dậy lật đổ chánh phủ.

3. Nhận định về những hoạt động quân sự và chính trị của Việt Nam Cộng Hòa và quân đội đồng minh.

Trong phần này, Việt Cộng đã lập luận rằng những cuộc hành quân truy lùng và tiêu diệt (search and destroy) của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Việt Cộng nhắc đến việc họ đã mở thêm được mặt trận Quảng Trị và Thừa Thiên khiến cho Mỹ bị cầm chân khá nhiều lực lượng ở phía Bắc và do đó Tướng Westmoreland Hoa Kỳ đã không thể đưa thêm quân vào đồng bằng sông Cửu Long mà còn phải về Mỹ để xin thêm quân nữa. Cũng trong phần này, Việt Cộng tự nhận đã thâu được nhiều thắng lợi lớn lao.

4. Nêu ra một số khuyết điểm đã mắc phải: Việt Cộng nhìn nhận đã thiếu sót trong việc phối hợp những cuộc hành quân lớn, số du kích chưa đạt tới mức mong muốn, một số tác chiến Việt Cộng chưa phát triển được hết những khả năng chiến đấu, sự đấu tranh chính trị chưa dủ mạnh để đánh những đòn quyết định, việc tổ chức những đoàn thể theo Việt Cộng chậm chạp và chưa nâng cao được phẩm chất của các cán bộ.

Tài liệu còn nói rõ rằng nếu Hoa Kỳ không chịu rút khỏi Việt Nam, và không chịu nhìn nhận vai trò then chốt của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (Cộng Sản) trong một chính phủ liên hiệp, thì Việt Cộng sẽ tiếp tục chiến đấu tới cùng và cho thấy một sự thay đổi lớn lao về chiến lược. Nghĩa là Việt Cộng sẽ gia tăng mức độ chiến tranh để hy vọng đạt chiến thắng quyết định trong thời gian ngắn, khác hẳn với chiến lược trường-kỳ chiến-tranh như vẫn thường được rêu rao trước đây.

Chung quy thì tài liệu này chỉ là một đề tài nhận định về thời cuộc với các đường lối hoạt động mới được đề ra để chuẩn bị cho một kế hoạch sắp được mang ra thi hành, những kế hoạch này chưa được tiết lộ.

Kế hoạch của Võ Nguyên Giáp được mang ám số là TCK-TKN (nghĩa là Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa) được soạn thảo vào mùa thu năm 1967. Kế hoạch này đi ngược lại với chiến lược “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi.” Chiến lược trường-kỳ kháng-chiến gồm có 3 giai đoạn: giai đoạn phòng ngự, giai đoạn cầm cự, và giai đoạn tổng phản công.

Giai đoạn cầm cự còn được gọi là “giai đoạn gây cơ sở,” là thời kỳ còn phôi thai phát khởi chiến tranh du kích, vừa đánh vừa bảo toàn lưc lượng và vừa gây cơ sở. Giai đoạn cầm cự còn được gọi là “giai đoạn giằng co,” là thời kỳ chuyển biến từ hình thức du-kích chiến sang du-kích vận-động chiến, công-kiên chiến, giao-thông chiến và quy-mô chiến với sự mở rộng căn cứ chiến địa, cơ sở tổ chức và quân chủng cùng các vùng đất đai chi phối được. Giai đoạn tổng phản công là giai đoạn chót khi mọi mặt đã chín mùi và thuận lợi chuyển đến việc cướp chính quyền phe nghịch.

Theo quy luật của chiến lược trường kỳ, thì giai đoạn trước chưa chín mùi không thể đốt giai đoạn kế tiếp. Nay đứng trước sự tham chiến của quân đội đồng minh quá hùng hậu, Việt Cộng vẫn lúng túng ở giai đoạn phòng ngự mà chưa bước hẳn sang giai đoạn cầm cự được. Nhưng Tướng Cộng Sản Võ Nguyên Giáp vẫn kêu gọi bộ đội Việt Cộng gấp rút đạt tới chiến thắng torng một thời gian ngắn thì ắt hẳn Cộng Sản Bắc Việt đã có một toan tính ra sao.

Tháng 10 năm 1967, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn và Nguyễn Duy Trinh (Ghi Chú: Trinh sau này bị nhóm Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thanh toán qua một chuyến rớt máy bay gần Đà Lạt vào thập niên 1980) ghé Bắc Kinh trên đường đi Mạc Tư Khoa dự lễ kỷ niệm “Cách mạng Bôn Sơ Vích 50 năm.” Giáp phác họa chiến lược cho Bắc Kinh biết. Thoạt đầu Bắc Kinh không tán thành nhưng sau nhận giúp đỡ Hà Nội và đề nghị giúp Giáp thêm 100,000 binh sĩ tiếp vận và tài xế và 200,000 nhân viên giữ gìn và bảo trì đường xá, thiết lộ để Giáp có thêm quân chiến đấu gởi vô Miền Nam. Nhưng Hà Nội không nhận sự giúp đỡ nhân lực này ngoại trừ một số rất ít. Bắc Kinh cũng hứa cung cấp hai loại hỏa tiễn mới 107 ly và 240 ly. Còn Liên Sô thì hứa cung cấp xe thiết giáp và các vũ khí khác.

Gần đến Giáng Sinh, tham mưu trưởng quân đội miền Bắc là Trung Tướng Văn Tiến Dũng gởi chỉ thị chiến dịch Đông Xuân 1967-68, cho các chỉ huy trưởng của các đơn vị Việt Cộng. Chỉ thị này mới đề cập tới kế hoạch tổng công kích cách cụ thể.

Tết Dương lịch, Nguyễn Duy Trinh, Bộ Trưởng Ngoại Giao, còn ngỏ ý muốn hòa đàm cốt ý đánh lạc hướng sự chú tâm của Hoa Kỳ trước khi họ khởi sự tấn công vào Tết Âm lịch. Một ít lâu sau đó, Hồ Chí Minh đọc bốn câu thơ chúc Tết trên đài phát thanh Hà Nội hàm ý gửi mật lịnh tổng tấn công. Nguyên văn 4 câu thơ này như sau:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ
Tiến lên, toàn thắng ắt về ta

Sự thật khi nghe chẳng ai tin và cho rằng những lời thơ này chỉ có tính cách khích lệ và cổ võ cho một chiến thắng mơ ước xa xăm của Việt Cộng. Nhưng sự thật các cán bộ Việt Cộng đã dùng bài thơ này khai triển thành một tập tài liệu học tập rất chu đáo.

Trở lại kế hoạchTổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa của Võ Nguyên Giáp, trước cũng như sau ngày tổng công kích của Việt Cộng, nguyên bản vẫn chưa được tiết lộ. Nhưng theo cung từ của tù binh, hồi chánh và các diễn biến của các trận đánh, kế hoạch này cũng đã được bộc lộ một phần nào.

Ám danh “TCK-TKN” có nghĩa là kế hoạch có 2 giai đoạn: giai đoạn 1 là tổng công kích, và giai đoạn 2 là tổng khởi nghĩa. Giai đoạn 1 có nghĩa là nhằm mở một cuộc tổng công kích trên toàn lãnh thổ Miền Nam cùng một lúc vào những mục tiêu quyết định. Giai đoạn 2 có nghĩa là nương đà thắng của cuộc tổng công kích, dùng cán bộ chính trị vận dụng quần chúng nổi dậy cướp chính quyền thành lập một chính thể mới.

Thật ra thì cuộc tổng công kích kết hợp với tổng khởi nghĩa của Việt Cộng vào Tết Mậu Thân năm 1968 đã hoàn toàn thất bại. Nhưng cuộc tổng công kích này cũng đã gây nhiều ngạc nhiên cho thế giới về khả năng tấn công và những mưu toan của Việt Cộng. Người ta cho rằng khi mở cuộc tấn công này, Việt Cộng đã muốn tạo một tiếng vang to lớn trên quốc tế, gây nên sự kinh hoàng trong quần chúng Miền Nam, và cũng như gây thêm nhiều gánh nặng về xã hội cho chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đối với các thiệt hại của dân chúng.

Nhưng, trái với dự đoán trên, một cán bộ cao cấp của Trung Ương Cục Miền Nam bị bắt trên đường đi tới địa điểm hội họp vào trước ngày xảy ra cuộc tổng công kích đã cho biết vì sao mà có trận tổng công kích. Cán bộ này tên là Năm Đông tự là Can đã nói: “Chiến dịch TCK-TKN không phải là một chiến dịch thông thường, không phải là một chiến dịch tạo tiếng vang gây uy thế chính trị mà là một chiến dịch mưu toan chiến thắng quyết định.”