Tr. Tướng Dư Quốc Đống

duquocdong

Dư Quốc Đống (1932-2008), nguyên là tướng lĩnh thuộc Binh chủng Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, mang quân hàm Trung tướng. Xuất thân từ trường Võ bị do Quân đội Liên hiệp Pháp mở ra ở Cao nguyên Trung Việt. Là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù với thời gian lâu nhất (1964-1972). Nguyên là Tư lệnh Quân đoàn của Việt Nam Cộng hòa.
Tiểu sử & gia đình

Ông sinh ngày 21/12/1932 tại làng Vĩnh Thanh Vân Minh Lương tỉnh Rạch Giá, Nam Việt.

Khi còn nhỏ theo học tại trường Tư thục Võ Thành Trứ, về sau lên Sài Gòn học tại tư thục Guillerault trên đường Chasseloup Laubat. Tốt nghiệp Trung học.
Thân phụ: Cụ Dư Sòng (phục vụ tại Thương cảng Sài Gòn)
Thân mẫu: Cụ Trần Thị Hiển (1911-2003). Hai cụ sinh được 8 người con, tướng Đống là con thứ 2.
Bào huynh: Đại tá Dư Quốc Lương (sinh 1930, khoá 2 Thủ đức, sau cùng là Chánh sở Yểm trợ Không quân).
Phu nhân: Bà Long Thị Bảy Dư.
Binh nghiệp

Năm 1951: Thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 52/120.247. Trúng tuyển theo học khóa 5 Hoàng Diệu Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt (khai giảng: 1/7/1951, mãn khoá: 24/4/1952). Tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy.

Năm 1952: Ra trường, tình nguyện vào binh chủng Nhảy Dù (sau này, là một trong những đơn vị thiện chiến nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa).

Năm 1955: Ông được thăng cấp Trung úy giữ chức Đại đội trưởng Nhảy Dù.

Năm 1958: Thăng cấp Đại úy, lên chức Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 1 Nhảy dù.

Năm 1960: Được cử giữ chức Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Dù thay thế Thiếu tá Trần Văn Đô (sau giải ngũ ở cấp Đại tá).

Năm 1961: Tháng 7, ông được đặc cách thăng Thiếu tá tại mặt trận.

Năm 1962: Đầu tháng 1, ông được cử làm Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 Dù tân lập. Cuối năm bàn giao Chiến đoàn 1 lại cho Thiếu tá Trương Quang Ân (Năm 1968 là Chuẩn tướng Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh, bị tử nạn trực thăng, được truy thăng Thiếu tướng)

Năm 1963: Đầu năm, ông được thăng cấp Trung tá lên làm Tư lệnh phó Lữ đoàn Dù do Đại tá Cao Văn Viên làm Tư lệnh.

Năm 1964: Tháng 9, thăng cấp Đại tá quyền Tư lệnh Lữ đoàn Dù thay thế Thiếu tướng Viên lên làm Tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu. Ngày 1/11 cùng năm vinh thăng Chuẩn tướng và trung tuần tháng 12, ông chính thức được cử giữ chức Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù (Năm 1965 Lữ đoàn Dù cải tổ thành Sư đoàn ông là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy Dù). Ông là Tư lệnh thứ tư của Binh chủng Nhảy dù sau các tướng: Đỗ Cao Trí, Nguyễn Chánh Thi và Cao Văn Viên.

(Ngoài 4 vị Tư lệnh kể trên, xuất thân từ Binh chủng Dù sau này lên tướng còn có: Đại tướng Nguyễn Khánh (chỉ huy Tiểu đoàn Dù thời Quân đội Liên hiệp Pháp, sau chuyển qua bộ binh) Các Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ (chỉ huy Đại đội Dù từ thời Quân đội Liên hiệp Pháp, sau chuyển qua bộ binh), Phan Trọng Chinh và Ngô Quang Trưởng. Các Thiếu tướng Trương Quang Ân, Đỗ Kế Giai, Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú và Đoàn Văn Quảng (tướng Phú và Quảng, sau chuyển sang và Tư lệnh binh chủng Lực lượng Đặc biệt). Các Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, Hồ Trung Hậu, Trần Quốc Lịch, Trần Đình Thọ, Lê Văn Tư, Lê Nguyên Vỹ và Lê Quang Lưỡng (Tư lệnh sau cùng của Sư đoàn Dù).
(Tướng H. Norman Schwarzkopf, Tư lệnh Quân lực Hoa Kỳ trong chiến dịch Bão táp Sa mạc vùng Vịnh, đã từng phục vụ dưới quyền tướng Đống trong vai trò Thiếu tá cố vấn quân sự Tiểu đoàn, Lữ đoàn Dù trong các năm từ 1965-1970)

Năm 1968: Ông được vinh thăng Thiếu tướng.

Năm 1970: Vinh thăng Trung tướng, vẫn là Tư lệnh Sư đoàn Nhảy dù.

Năm 1972: Trung tuần tháng 11, bàn giao chức vụ Tư lệnh Sư đoàn Dù lại cho Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng (nguyên Tư lệnh phó của Sư đoàn)

Năm 1973: Đầu năm, ông làm trưởng phái đoàn Việt Nam Cộng hòa trong Uỷ ban Quân sự 4 bên thay thế Thiếu tướng Ngô Du. Cuối năm, nhận nhiệm vụ Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế thay Chuẩn tướng Võ Văn Cảnh sau khi bàn giao chức Trưởng đoàn Quân sự 4 bên lại cho Trung tướng Cao Hảo Hớn.

Năm 1974: Cuối năm, ông được bổ nhiệm chức vụ Tư lệnh Quân đoàn III và Quân khu 3 hoán chuyển nhiệm vụ cho Trung tướng Phạm Quốc Thuần (tướng Thuần về làm Chỉ huy trưởng Quân trường Đồng Đế).

Năm 1975: Tháng 1, khi đang là Tư lệnh Quân đoàn III, ông đã xin từ chức sau khi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bác bỏ lời yêu cầu của ông gửi quân tăng viện đến mặt trận Phước Long (một tỉnh thuộc Quân khu III, ngày 6/1/1975 đã bị quân bộ đội Bắc Việt Nam chiếm được) và bàn giao chức Quân đoàn III lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Toàn nguyên Tư lệnh Binh chủng Thiết Giáp. Sau dó, ông về Bộ Tổng tham mưu làm phụ tá cho Tổng tham mưu trưởng.

Khi phải rời Sài Gòn vào 29 tháng 4 năm 1975, ông không còn giữ chức vụ nào.

Sau đó ông định cư tại Huntington Beach, Quận Cam thuộc miền nam tiểu bang California, Hoa Kỳ.

Ông đã về hưu sau 13 năm phục vụ cho Hội Bác Ái Công giáo (Catholic Charities) tại Los Angeles trong cương vị là người cố vấn tìm công ăn việc làm cho người di dân.

Ông qua đời ngày 21 tháng 4 năm 2008 tại nơi định cư thọ 76 tuổi. Lễ tang được tổ chức ngày 3 Tháng 5 tại nhà thờ First United Methodist Church, Huntington Beach
————————
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia