Trận Thung Lũng Ia Drang

Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang? Trận Nào?

Trận đánh Thung Lũng Ia Drang nhiều người biết tới là trận đánh do Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ thực hiện từ ngày 14 đến 17 tháng 11 năm 1965. Tuy nhiên còn xảy ra một trận đánh khác cũng tại thung lũng Ia Drang mà ít ai biết đến do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện ngay tiếp sau đó từ ngày 18 đến 26 tháng 11 năm 1965. Để cho giản tiện, xin gọi trận trước là trận Thung Lũng Ia Drang Mỹ và trận sau là trận Thung Lũng Ia Drang Việt.

Cả hai trận diễn ra tại vùng giữa chân rặng núi Chu Prong và sông Ia Drang chảy dọc gần bên theo hướng đông-tây; trận Thung Lũng Ia Drang Mỹ tại phía đông và trận Thung Lũng Ia Drang Việt tại phía tây gần biên giới Căm Bốt.

Cả hai trận được tung ra như là giai đoạn khai thác chiến thắng sau khi Quân Đoàn II thành công giải tòa áp lực của Việt Cộng vây lấn trại Pleime. Các đơn vị thuộc Quân Lực Mỹ và Quân Lực Việt Nam tiếp nối nhau truy đuổi địch quân trên đường rút lui về khu ẩn trú trong vùng rừng rậm thuộc rặng núi Chu Prong.

Nhiều danh xưng đã được xử dụng đến liên quan đến hai trận này, đặc biệt là Trận Đánh Pleime, Trận Đánh Ia Drang, Hành Quân Silver Bayonet, Chiến Dịch Pleiku… tạo thành một “màn sa mù về các chiến trận”. Để làm sáng tỏ vấn đề, ta nên duyệt qua thời gian thứ tự các trận đánh xảy ra trong Chiến Dịch Pleime.

Bộ Ba Trận Đánh: Pleime, Chu Prong và Ia Drang

Các đơn vị Việt Cộng tấn kích vào trại Pleime ngày 19 tháng 10 năm 1965. Quân Đoàn II thực hiện Hành Quân Dân Thắng 21 để tiếp cứu và giải tỏa trại ngày 26 tháng 10, với sự yểm trợ của US Task Force Ingram. Sau khi địch quân rút lui, Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ được giao trọng trách truy kích địch quân với Hành Quân Long Reach. Cuộc hành quân này kéo dài đến ngày 26 tháng 11 và bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn một mang tên Hành Quân All the Way với Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ tảo thanh địch quanh vùng trại Pleime; giai đoạn hai mang tên Silver Bayonet I với Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh Mỹ truy kích địch xa hơn đến tận chân rặng núi Chu Prong về hướng tây trại Pleime; chính là trong khuôn khổ của Hành Quân Silver Bayonet I mà Trận Đáng mang tên “Thung Lũng Ia Drang” diễn ra tại bãi đáp X-Ray và bãi đáp Albany dưới chân rặng núi Chu Prong từ ngày 14 đến 17 tháng 11; và giai đoạn ba mang tên Silver Bayonet II với Lữ Đoàn 2 Kỵ Binh Mỹ với sứ mạng bảo vệ căn cữ hỏa lực tại LZ Crooks yểm trợ cho Lữ Đoàn Dù Việt Nam. Ngay kế tiếp sau đó, vào ngày 18 tháng 11, Lữ Đoàn Dù Việt Nam thay thế các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ truy kích tiếp tàn quân địch xa hơn về phía tây dọc theo sông Ia Drang với cuộc Hành Quân Thần Phong 7.

Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ

Tuy Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ xảy ra tại bãi đáp X-Ray và bãi đáp Albany này đã được cuốn sách của Tướng Hal Moore và ký giả Joseph Galloway tựa đề We Were Soldiers Once…And Young, và cuốn phim của Mel Gibson mang tên We Were Soldiers quảng bá rộng rãi trong dân gian, số đông quần chúng vẫn không hay biết đến một số chi tiết mà ngay cả giới quân sự Mỹ cũng làm lơ không đả động đến:
– Hành Quân Mỹ Long Reach, bao gồm Hành Quân All the Way và Hành Quân Silver Bayonet, là sáng kiến của Quân Đoàn II và nằm dưới sự kiểm soát của (tuy là không phải là dưới sự chỉ huy) của Quân Đoàn II, với Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ trong vai trò chính và Lữ Đoàn Dù VN trong vai trò lực lượng trừ bị;
– trong cuộc Hành Quân Long Reach, Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ được Biệt Cách Dù VN yểm trợ;
– vị trí đóng quân của Việt Cộng tại Chu Prong do Quân Đoàn II cung cấp cho Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ;
– và Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt tiếp nối và kết thúc Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ.

Tướng Westmoreland ý thức được là toàn bộ chiến dịch Pleime là một nỗ lực chung của hai Quân Lực Hoa Kỳ và Quân Lực Việt Nam, dưới sự kiểm soát hành quân của Quân Đoàn II. Ông viết trong Lời Tựa của Why Pleime:

Ngày 10 tháng 10 năm 1966

Đối với việc xử dụng các lực lượng phối hợp, trận đánh Plei Me là một trường hợp điển hình.
– Các thành quả nổi bật của các giai đoạn sau có thể, có lẽ, không bao giờ thể hiện được nếu như không có đầu óc thẩm định và con mắt nhìn xa của giới lãnh đạo Việt Nam.
– Nỗ lực chuẩn bị tiên khởi trên chiến trường, mở đường cho việc xử dụng Sư Đoàn 1 Không Kỵ, đã do các lực lượng Việt Nam hoàn thành.
– Cũng vậy, thành quả khai thác của giai đoạn chót đã do Lữ Đoàn Dù Việt Nam phần lớn hoàn thành.
– Sự hữu hiệu của nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung quả là hiếm thấy trong chiến tranh hiện đại.

“Nỗ lực khéo tổ chức, ăn khớp mật thiết, cộng tác phối trí chung ” này, theo khái niệm của Quân Đoàn II bao gồm các đặc điểm sau đây: “phối hợp các công tác tình báo và yểm trợ; chia sẻ khái niệm hành quân và kết quả; vùng hành quân riêng rẽ; bộ tư lệnh riêng rẽ; điều quân riêng rẽ; hành động riêng rẽ; và trừ bị riêng rẽ.”

Các bài tường thuật thuộc giới Mỹ về Chiến Dịch Pleiku-Iadarang cho cảm tưởng đây là một cuộc hành quân Mỹ hoàn toàn. Tuy nhiên, trong thực tế các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ hành quân với sự yểm trợ của các toán Biệt Cách Dù VN; các toán này thực hiện công tác thăm dò các bãi đáp, thiết kế an ninh tại các bãi đáp trước khi quân lính Mỹ đổ bộ, và sau khi quân lính Mỹ đổ bộ, các toán này tiến sâu tuần tiễu vào lòng đất địch quân. Một điểm đáng ghi nhận là các hoạt động này của các toán Biệt Cách Dù VN không được tiết lộ từ các nguồn quân sự Mỹ hay Nam Việt Nam mà là từ một nguồn quân sự Việt Cộng; tài liệu này nghiên cứu về:

Các đặc điểm của Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ
Qua các Hành Động của SĐ tại Pleime và Ia Drang
Từ 24 tháng 10 đến 19 tháng 11 năm 1965
I. Các Hành Động Chính

a) Đợt 1: hợp tác với các quân lính ngụy để giải tỏa vây lấn tại Pleime (24 đến 28 tháng 10 năm 1965).
b) Đợt 2: xử dụng những đơn vị tăng phái nhỏ và phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy để thực hiện những cuộc tấn kích vào hậu cứ của ta (28 tháng 10 đến 11 tháng 11 năm 1965).
c) Đợt 3: xử dụng những lực lượng lớn để phát động những cuộc tấn kích sâu vào hậu cứ của ta tại Chu Prông và Ia Drang (14 đến 19 tháng 11 năm 196̀5).
II. Các Đặc Điểm Chiến Thuật

Qua các hoạt động của chúng tại Pleime và Ia Drang, Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ đã thực hiện những loại hành quân sau đây:
– Tăng cường các quân lính ngụy để giải tỏa vây lấn tại Pleime.
– Thực hiện nhửng hoạt động riêng rẽ tại một vùng riêng rẽ hay phối hợp với những toán tăng phái nhỏ của Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
b) Đổ bộ thẳng bằng “nhảy cóc” vào hậu cần của ta bằng trực thăng (28 tháng 10 đến 10 tháng 11 năm 1965).
– các lực lượng xử dụng: từ một tiểu đoàn đến một đại đội của lính Mỹ hay hai đại đội của lính Mỹ phối hợp với Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
II – Các Mánh Lới Chiến Thuật
a) Trước khi đổ bộ. Thám sát các bãi đổ bộ bằng nhiều phi vụ thám sát hay bằng các toán nhỏ Biệt Cách Dù ngụy.
(…)
c) Đổ bộ quân. – Biệt Cách Dù ngụy hay các đơn vị thám sát Mỹ luôn đổ bộ trước để giữ an ninh bãi đổ bộ trước khi bộ binh, đơn vị yểm trợ và sở chỉ huy đổ bộ.
(…)
d) Sau khi đổ bộ quân. – Biệt Cách Dù ngụy thường tiến xa tuần tiễu.
(…)
28 tháng 12 năm 1965
Trưởng Ban 2
Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3

Trung Tướng Harold Moore, khi dẫn đầu toán quân thuộc Tiểu Đoàn 1/7 Kỵ Binh Mỹ nhảy xuống bãi đáp X-Ray, không nhắc tới ông có được sự yểm trợ của Biệt Cách Dù VN hay không, nhưng ông nhìn nhận là một đội toán kiểm thính điện đài của Quân Đoàn II cung cấp tin tình báo về vị trí của quân Việt Cộng ẩn nấu tại rặng núi Chu Prong:

Trung Sĩ Nhất Plumley và tôi nhảy ra khỏi giường bố tại trại quân Pháp cũ ngoài hàng rào kẽm gai tại trại Lực Lượng Pleime. Đó là vào 4 giờ 30 sáng chủ nhật 14 tháng 11, và Tiểu Đoàn 1 thuộc Lữ Đoàn 7 có nhiều công tác phải thực hiện trong ngày hôm nay (…) Đang khi nhấm nháp một tách cà phê, Matt Dillon chuyển cho tôi một tin tức hay ho là một toán kiểm thính điện đài biệt phái tại bộ tư lệnh của ta nghe bắt được. Dillon nói: “Họ nghe bắt được một bản thông tin dưới dạnh mật mã bằng tiếng Quan Thoại, có vẻ là một bản báo cáo, từ một vị trí đâu đó trên lằn thẳng từ trại Pleime nhắm qua một bãi quang tại chân núi Chu Prong. Viên trung úy tình báo trưng ra một bản đồ có ghi một lằn bút trên đó. Anh ta nói điện đài phát tín hiệu nằm đâu đó trên lằn này. Tôi không nhớ rõ̉ bản thông tin này dài bao nhiêu – điều này không khiến tôi mấy quan tâm. Điều quan trọng là hướng phát xuất của tín hiệu. Viên trung úy nói ông nghĩ có thể có một trung đoàn Việt Cộng đâu đó gần núi Chu Prong.” (Lt. Gen. Harold Moore and Joseph Galloway, We Were Soldiers Once…and Young, 63-64)

Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt

Có hai bài tường thuật kể lại Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện: một bài của Tướng Schwarzkopf, và một bài của Quân Đoàn II.

Tướng Schwarzkopf kể lại sự tham gia của ông trong trận đánh này với tư cách một cố vấn của Trung Tá Ngô Quang Trưởng, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn Dù, trong cuốn hồi ký “It Doesn’t Take a Hero” (2002):

Quân Dù được lệnh ngăn chận các trung đoàn Bắc Việt bị đánh bại ở Thung Lũng Ia Drang đang lẩn trốn trở qua Cam Bốt. Tôi đang chập chờn ngủ sau một bữa ăn no nê đánh chén cà ri gà và rượu bia thì bị đánh thức phải đi ra phi trường. Trưởng đã tụ tập một lực lượng to tát khác thường với khoảng chừng 2000 binh sĩ Dù để đi tới Ia Drang sáng hôm sau, và đã chọn tôi làm cố vấn cho ông.
Chúng tôi được máy bay vận tải đưa tới sân bay vùng đất đỏ Đức Cơ, nơi tôi đã từng đồn trú trước đây, và từ đó trực thăng chở chúng tôi xuôi Nam xuống vùng thung lũng. Ngay khi chúng tôi nhảy xuống khỏi trực thăng, chúng tôi liền đụng độ giao tranh với địch. Thung lũng rộng khoảng 12 mile tại địa điểm Thung Lũng Ia Drang chảy theo hướng Tây về phiá Cam Bốt – và đâu đó trong vùng rừng già đó đại đơn vị địch quân đang di động lẩn trốn. Chúng tôi đã đáp xuống phiá Bắc, và Trưởng ra lệnh cho các tiểu đoàn băng qua sông Ia Drang và đóng chốt dọc theo rặng núi Chu Prong với những sườn núi cao chạy hướng về phiá Nam. Thật là hấp dẫn quan sát cách Trung Tá Trưởng hành quân. Đang khi chúng tôi lần bước, ông bỗng ngừng lại nghiên cứu bản đồ, và thỉnh thoảng ông lại chỉ ngón tay trên bản đồ và nói, “tôi muốn anh cho nã pháo vào đây.” Thoạt tiên tôi ngờ vực, nhưng vẫn cứ kêu gọi pháo binh bắn theo lời yêu cầu; khi chúng tôi tới vùng đó, chúng tôi thấy xác địch nằm ngổn ngang. Chỉ bằng cách hình dung địa thế và dựa vào 15 năm kinh nghiệm đánh giặc, ông chứng tỏ khả năng đặc biệt tiên đoán ý đồ địch.
Khi bộ chỉ huy lập trại đóng quân đêm đó, Trưởng mở bản đồ ra, châm một điếu thuốc, và phác họa kế hoạch chiến trận của mình. Khoản rừng giữa vị trí chúng tôi đang đóng quân tại các sườn núi và con sông, Trưởng giải thích, tạo nên một hành lang thiên nhiên – con đường Bắc Quân thể nào cũng chui đầu vào. Trưởng nói, “Tảng sáng, chúng ta sẽ phái một tiểu đoàn tới địa điểm này, về phiá trái, làm lực lượng nút chận giữa sườn núi và con sông. Vào khoảng 8 giờ sáng ngày mai, tiểu đoàn này sẽ đụng độ mạnh với địch quân. Tiếp đó tôi sẽ gửi một tiểu đoàn khác tới địa điểm này, về phiá phải. Tiểu đoàn này sẽ chạm địch vào khoảng 11 giờ. Tôi muốn anh ra lệnh pháo binh sẵn sàng nã vào vùng này, về phiá trước mặt chúng ta,” Trưởng nói, “và rồi chúng ta sẽ tấn công với tiểu đoàn thứ ba và thứ tư của chúng ta đánh xuống mạn sông.
Tôi chưa từng nghe thấy điều lạ lùng như vậy tại West Point. Tôi nghĩ bụng, “Cái gì mà 8 giờ rồi 11 giờ? Làm sao mà có thể hoạch định thời khóa biểu cho trận đánh như vậy được?” Nhưng tôi cũng nhận ra kế hoạch của Trưởng: Trưởng đã tái tạo chiến thuật Hannibal đã dùng vào năm 217 trước tây lịch, khi Hannibal bao vây và tiêu diệt các đơn vị viễn chinh La Mã tại bờ sông Trasimene.
Nhưng, Trưởng nói thêm, chúng ta có một điều khó xử: quân Dù Việt Nam được đưa vào chiến dịch này vì cấp trên lo ngại các lực lượng Mỹ khi đuổi theo địch quân có thể mạo hiểm tiến tới quá sát ranh giới Cam Bốt. Trưởng nói, “Theo bản đồ của anh, biên giới Căm Bốt nằm tại đây, 10 cây số về phiá Đông nếu so với bản đồ của tôi. Để có thể thực hiện kế hoạch của tôi, phải dùng bản đồ của tôi thay vì của anh, nếu không chúng ta không tài nào đánh vòng sâu đủ để đặt lực lượng nút chận đầu tiên của chúng ta. Như vậy, Thiếu Tá Schwarzkopf, anh cố vấn sao đây?”
Viễn ảnh để địch quân chạy thoát trở lại khu an toàn, để rồi khi hồi phục lại sức, chúng lại tấn công trở lại khiến tôi sôi gan lên cũng giống mọi quân sĩ khác. Một số địch quân này đã đụng độ với tôi bốn tháng trước đây tại Đức Cơ; tôi không muốn phải giao tranh lại với chúng bốn tháng tới đây. Như vậy tội gì tôi phải cho là bản đồ của tôi chính xác hơn bản đồ của Trưởng cơ chứ?
“Tôi cố vấn chúng ta dùng lằn biên giới vạch theo bản đồ của Trung Tá.”
Sau khi ban bố các lệnh tấn công, Trưởng ngồi nghiên cứu bản đồ với điếu thuốc lá trên môi. Chúng tôi duyệt đi duyệt lại kế hoạch thâu đêm, mường tượng mọi diễn tiến của trận đánh. Khi trời hừng sáng, chúng tôi phái Tiểu Đoàn 3 tiến quân. Họ tới vị trí và, y như là, đúng 8 giờ sáng, họ gọi điện về báo cáo đụng địch mạnh. Trưởng phái Tiểu Đoàn 5 tiến về hướng phải. Vào 11 giờ, họ báo cáo chạm địch mạnh. Đúng như Trưởng tiên đoán, trong khu rừng phiá dưới chúng tôi, địch đụng đầu với Tiểu Đoàn 3 tại ven bờ và quyết định, “Tụi mình không thể thoát ngã này. Tụi mình sẽ lộn trở lui.” Quyết định này trái nguyên tắc căn bản của thế tháo lui và lẩn tránh, tức là chọn con đường bất tiện nhất để giảm thiểu nguy cơ chạm trán với địch quân đang nằm chờ. Nếu chúng chọn leo rặng núi Chu Prong ra khỏi thung lũng thì có lẽ chúng thoát được nạn. Trái lại, chúng đã lần theo thung lũng, đúng như Trưởng tiên đoán, và do đó bị chúng tôi đóng vào hộp. Trưởng nhìn tôi và nói, “Hãy cho nã pháo của anh.” Chúng tôi pháo nửa tiếng. Tiếp đó Trưởng ra lệnh hai tiểu đoàn còn lại đánh xuống sườn đồi; súng ống khai hỏa rất nhiều trong khi chúng tôi theo đoàn quân tiến xuống.
Vào khoảng 1 giờ trưa, Trưởng tuyên bố, “Ô-kê, chúng ta dừng chân tại đây.” Trưởng chọn một bãi quang xinh xắn, và chúng tôi ngồi xuống ăn trưa cùng với ban tham mưu! Đang ăn nửa chừng , Trưởng bỗng đặt bát đũa xuống và ra lệnh vào máy phát thanh. “Trung Tá làm gì vậy?” tôi hỏi. Trưởng ra lệnh cho binh sĩ lục lạo chiến trường để thu lượm súng ống: “Chúng ta triệt hạ nhiều địch quân, những đứa thoát chết vứt bỏ lại súng ống khi tháo chạy.”
Lạ nhỉ, Trưởng có nhìn thấy cái quái gì đâu! Mọi điều đều bị rừng cây che đậy. Nhưng chúng tôi ở nán lại bãi quang trọn ngày còn lại, và quân lính ôm về từng bó súng ống chất thành đống trước mặt chúng tôi. Tôi khoái quá – chúng ta đã gặt hái một chiến công hiển hách! Nhưng Trưởng thì lại ngồi yên, thản nhiên hút thuốc.

Quân Đoàn II thuật lại trận đánh này như sau:

Chương VI
Đợt 3
Hành Quân Thần Phong 7
Từ 18 đến 26 Tháng 11 Năm 1965
Đòn Đánh Kết Liễu Tại Ia Drang

“Cho Chúng Tiêu Tùng Luôn”
Trong năm ngày liên tiếp, từ 15 đến 19 tháng 11, các phóng pháo cơ B52 đã bay tổng cộng 96 phi vụ. Từng khu vực một, các khu vực của rặng núi Chu Prông – mỗi khu 20 dậm vuông – tuần tự trải qua một cơn động đất từ Tây sang Đông. Các công sự và hầm hố trước nay từng chống cản các vụ đánh phá của phi cơ tác chiến và pháo binh bắt đầu bị các trái bom 750 cân anh trực tiếp đánh rập. Lớp cây lá rừng rậm không còn hữu hiệu cho công việc ẩn núp lẫn bao che. “Cửa hậu” vào Căm Bốt bị đóng lại và để trốn thoát, tàn quân Việt Cộng chỉ còn lại thung lũng eo hẹp của Ia Drang.
Ước tính tình báo về khả năng địch, thực hiện vào ngày 17 tháng 11 chỉ cho thấy là gần 2/3 lực lượng của họ bị tiêu hao trong những trận giao tranh ở Đợt I và Đợt II.
Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II nghĩ là đến lúc tung lực lượng trừ bị vào để chấm dứt trận chiến đã kéo dài khoảng một tháng. Ngoài bị tổn thất nặng nề, địch buộc phải xa vào bẫy các lực lượng của ta giăng ra và xô đẩy vào các lộ trình rút lui mà chúng ta dự kiến.
Lần này nỗ lực chính được thực hiện bởi Lữ Đoàn Dù QLVNCH với sứ mạng triệt hủy các đơn vị Việt Cộng đào tẩu và tất cả các cơ sở xung quanh thung lũng Ia Drang. Sư Đoàn 1 Không Kỵ Mỹ trước nay gánh chịu tấn công sẽ tiếp tục tạo áp lực từ Đông sang Tây và cung ứng pháo yểm cho Lữ Đoàn Dù.
Cuộc hành quân mang tên “Thần Phong 7” khởi động chiều ngày 18 tháng 11 khi lữ đoàn đươc trực thăng vận tới vùng hành quân, ngay sau khi tới Pleiku.

Tôi xin lấy cơ hội này để tuyên dương thành quả vượt bực của Phi Đội C130 của Phi Đoàn 7 KQHK đã vận chuyển trong vài tiếng đồng hồ các đơn vị sau đây:
– Ban Chỉ Huy Lữ Đoàn Dù,
– Ban Chỉ Huy các Chiến Đoàn 1 và 2 Dù,
– Năm tiểu đoàn Dù: 1, 3, 5, 7 và 8
từ các nơi khác nhau, như Sài Gòn, Biên Hòa, Vũng Tàu và Phú Yên tới Pleiku. Chính là nhờ vào công lao đóng góp của họ mà cuộc hành quân đã có thể khởi sự đúng vào ngày giờ ấn định.

Mạnh Ai Nấy Thoát Thân
Trong mười ngày “tìm và diệt” – từ ngày 18 đến 26 tháng 11 – nhiều cuộc giao tranh xảy ra trong thung lũng sông Ia Drang giữa các đơn vị Dù và địch. Nhưng phần đông là những cuộc đụng độ nhỏ với các phần tử Việt Cộng tản mác.
Đợt ba của trận Pleime mang tính chất cá biệt không những vì địch tháo chạy mà cũng vì tinh thần xuống dốc của quân lính. Vô số vũ khí Việt Cộng ̣được tìm thấy quăng vứt vào bụi cây dọc theo đường mòn hay xuống lòng suối.

Cuộc giao tranh lớn nhất trong đợt ba xảy ra vào lúc 1440 giờ ngày 20 tháng 11, tại Bắc sông Ia Drang. Lần này là lần thứ hai trong trận Pleime Việt Cộng rơi vào ổ phục kích của ta và hứng chịu tổn hại nghiêm trọng (phục kích lần thứ nhất vào ngày 3 tháng 11, bởi các phần tử của Sư Đoàn 1 Không Ky). Trung Đoàn 32 Bắc Việt không can dự và không hề hấn trong suốt đợt hai, cuối cùng bị tìm thấy và buộc phải chiến đấu, mặc dù cố né tránh đụng độ càng nhiều càng tốt.
Sáng ngày đó, tiểu đoàn 3 Dù được lệnh di chuyển về hướng nam để giao tiếp với tiểu đoàn 6. Cả hai đơn vị đã thực hiện một cuộc truy lùng kỹ càng tại hai trục khác nhau từ bãi đổ bộ về hướng tây. Trong khi di chuyển tiểu đoàn 3 bị một đơn vị địch cấp tiểu đoàn âm thầm theo dõi. Nhưng một khi cuộc giao tiếp hoàn tất giữa hai tiểu đoàn của ta, đơn vị Việt Cộng này bị kẹt nội trong xạ trường của tiểu đoàn 3 và ngay trong trọng tâm của một ổ phục kích. Gần 200 Việt Cộng bị giết trong cuộc giao tranh tình cờ này.
Trong khi lùng kiếm các cơ sở địch trong vùng hành quân, Lữ Đoàn Dù phá hủy 3 trung tâm huấn luyện, một kho dấu quân cụ và 75 mái nhà.
Các cuộc hành quân tìm và diệt cũng được thực hiện phía nam sông Ia Drang nhưng chỉ có những đụng độ nhỏ với các phần tử Việt Cộng xảy ra.
Ngày 24 tháng 11, vì không còn đụng độ với địch, Lữ Đoàn Dù rút ra khỏi vùng hành quân, chấm dứt đợt ba của Trận Pleime với 265 Việt Cộng chết (đếm xác), 10 bị bắt và 58 vũ khí tịch thâu.

Xem xét kỹ lưỡng hai bài tường thuật cho thấy Tướng Schwarzkopf mô tả cuộc phục kích thứ hai xảy ra ngày 24 tháng 11, với Bộ Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Nhiệm 1 của Trung Tá Trưởng án ngữ trên đỉnh núi ngày hôm trước (tại 231115H như ghi trên bản đồ) và điều động Tiểu Đoàn 3 Dù về phía trái, tiểu đoàn này đụng độ với địch lúc 0845G (tại 240845H như ghi trên bản đồ) và điều động Tiểu Đoàn 5 Dù về phía phải, tiểu đoàn này đụng độ với địch lúc 1050G (tại 241050H như ghi trên bản đồ); và Quân Đoàn II chỉ nói tới cuộc phục kích đầu xảy ra ngày 20 tháng 11 vào lúc 1440G (tại 201440H như ghi trên bản đồ).

Như vậy, Hành Quân Thần Phong 7 – trận đánh Thung Lũng Ia Drang Việt – xảy ra như sau: Ngày 18/11/1965, từ 1500G đến 1800G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1 cùng với Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 được trực thăng vận đến thung lũng Ia Drang. Từ địa điểm tập trung này, Tiểu Đoàn 3 tiến bước về hướng Tây; không mấy chốc, tiểu đoàn này bị một tiểu đoàn địch âm thầm bám sát theo. Trong khi đó, Tiểu Đoàn 6 cũng được phái đi về hướng tây, song song với đường đạo của Tiểu Đoàn 3, nhưng xuống về hướng nam một tí. Ngày 19/11, vào lúc 1100G, Tiểu Đoàn 3 được lệnh bắt nối với Tiểu Đoàn 6. Ngày 20/11, vào lúc 1440G, Tiểu Đoàn 3 và 6 thành công phục kích tiểu đoàn địch quân tại địa điểm hai Tiểu Đoàn 3 và 6 kết tụ lại. Ngày 20/11, vào lúc 1745G, Tiểu Đoàn 8 được thả vào Thung Lũng Ia Drang. Ngày 22/11, vào lúc 1100G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 2 và Tiểu Đoàn 7 được thả xuống cùng địa điểm. Ngày 22/11, vào lúc 1330G, Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn 1, Tiểu Đoàn 3, 5 và 6 giao kết với các đơn vị mới tới. Từ địa điểm tập trung này, các đơn vị leo núi và tới đỉnh núi ngày hôm sau 23/11 vào lúc 1115G. Ngày hôm sau, Tiểu Đoàn 3 được phái về phía trái và đụng độ địch quân vào lúc 0845G; Tiểu Đoàn 5 được phái về phía phải và đụng độ địch quân vào lúc 1050G. Tiểu Đoàn 7 và 8 xông xuống núi và địch quân bị đóng hộp với lưng áp vào sông Ia Drang.

Tướng Schwarzkopf phục lăn trước tài năng quỉ khốc thần sầu của Trung Tá Ngô Quang Trưởng ̣đánh hơi các vị trí và đoán biết các hành tung của địch quân:

iadrang-map
– Thật là hấp dẫn quan sát cách Trung Tá Trưởng hành quân. Đang khi chúng tôi lần bước, ông bỗng ngừng lại nghiên cứu bản đồ, và thỉnh thoảng ông lại chỉ ngón tay trên bản đồ và nói, “tôi muốn anh cho nã pháo vào đây.” Thoạt tiên tôi ngờ vực, nhưng vẫn cứ kêu gọi pháo binh bắn theo lời yêu cầu; khi chúng tôi tới vùng đó, chúng tôi thấy xác địch nằm ngổn ngang. Chỉ bằng cách hình dung địa thế và dựa vào 15 năm kinh nghiệm đánh giặc, ông chứng tỏ khả năng đặc biệt tiên đoán ý đồ địch.
– Tôi chưa từng nghe thấy điều lạ lùng như vậy tại West Point. Tôi nghĩ bụng, “Cái gì mà 8 giờ rồi 11 giờ? Làm sao mà có thể hoạch định thời khóa biểu cho trận đánh như vậy được?”
– Trưởng tiên đoán, và do đó địch bị chúng tôi đóng vào hộp.
– Lạ nhỉ, Trưởng có nhìn thấy cái quái gì đâu! Mọi điều đều bị rừng cây che đậy.

Tướng Schwarzkopf đâu có ngờ là các toán Biệt Cách Dù hành quân tàng hình giữa lòng địch, bám theo sát địch quân trong khi chúng di chuyển và hành động như tai mắt của Trung Tá Trưởng, báo cáo thường xuyên cho ông tất cả mọi vị trí và di chuyển của địch quân; và ông đâu có hay là “địch quân bị sa vào các bẫy xập do các lực lượng ta thiết lập và bị dồn vào các đường lối rút quân mà chúng ta (Quân Đoàn II) đã dự kiến”.

Nhờ thu thập và phân tách thông tin tình báo cách chính xác, Quân Đoàn II đã thực hiện được một cuộc tấn kích ngắn gọn, như thể dùng một con dao giải phẩu, nhắm vào hai tiểu đoàn Việt Cộng – 635 và 334 – thành phần còn lại của mười hai tiểu đoàn thuộc ba trung đoàng – 320, 33 và 66 – mà Mặt Trận B3 Việt Cộng tung vào Chiến Dịch Pleime. Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ được tung ra trước đó dựa vào thông tin tình báo nông cạn khiến cho Tiểu Đoàn 1/7 Không Kỵ Mỹ bị địch phục kích tại bãi đáp X-Ray và Tiểu Đoàn 2/7 Kỵ Binh Mỹ bị địch phục kích tại bãi đáp Albany. Trái lại, Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Việt thành công phục kích địch quân tại hai địa điểm, lần đầu vào ngày 20 tháng 11 và lần sau vào ngày 24 tháng 11. Thử hình dung xem tai họa nào giáng xuống trên đầu 5 tiểu đoàn Dù VN, vì lẽ nếu như thông tin tình báo tính sai, các tiểu đoàn này sẽ bị thả vào một vùng còn đầy dẫy lực lượng địch tương đương với một trung đoàn, như trong trường hợp cuả Trận Đánh Thung Lũng Ia Drang Mỹ: các tiểu đoàn này sẽ bị nghiền nát và nuốt tươi vì họ không có được tính di động mà các đơn vị thuộc Sư Đoàn 1 Kỵ Binh Mỹ có được.

Giải Tỏa “Sương Mù Lịch Sử”

Trận Đánh Thung Lũng Việt quả thật là một chiến thắng quân sự to lớn (Tướng Schwarzkopf đã phát biểu: Tôi khoái quá – chúng ta đã gặt hái một chiến công hiển hách!) Vậy mà, cho đến ngày hôm nay, không mấy ai biết đến trận đánh này. Các tác giả và sử gia Việt Cộng lẫn Mỹ dường như chôn vùi nó dưới lớp đặc “sương mù của lịch sử”. Việt Cộng thì viết về Chiến Dịch Plâyme-Iadrang; người Mỹ thì viết về Chiến Dịch Pleiku-Iadrang ; cả hai bên đặt trọng tâm vào trận đánh Iadrang, đồng thời coi nhẹ trận đánh Pleime, coi đó như là giai đoạn sơ khởi cho trận đánh hoành tráng tại Iadrang, và hoặc lướt phớt qua hay hoàn toàn làm lơ trận đánh Iadrang do Lữ Đoàn Dù VN thực hiện. Hai bản đồ dưới đây mô tả về trận đánh Iadrang do Ban Sử của West Point thực hiện minh họa cách hùng hồn cái lối nhìn thiên lệch này.

trong đó trận đánh Pleime được coi như “phần mở màn” của trận đánh Ia Drang.

Chúng ta cần phải chấn chỉnh lại sử liệu cho trung thực: Chiến Dịch Pleime gồm ba trận đánh: trận đánh Pleime xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Dân Thắng 21 do các đơn vị VNCH thực hiện, trận đánh Chu Pong – thường được biết như là “trận đánh Ia Drang” – xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Long Reach do các đơn vị Mỹ thực hiện và trận đánh Ia Drang xảy ra trong khuôn khổ Hành Quân Thần Phong 7 do các đơn vị VNCH thực hiện.

Trước khi kết thúc, có một điểm cần lưu ý: Đại Tá Nguyễn Văn Hiếu, Tham Mưu Trưởng Quân Đoàn II, là người điều động toàn bộ Chiến Dịch Pleime. Chính Đại Tá Hiếu đích thân phối hợp các động tác của
– Chỉ Huy Trưởng Chiến Đoàn Thiết Giáp-Bộ Binh,
– các Tiểu Đoàn Trưởng của các Tiểu Đoàn 21, 22 Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn 1/42 Bộ Binh,
– các Tiểu Đoàn Trưởng của Chiến Đoàn Alpha Thủy Quân Lục Chiến VN,
– các Trung Đoàn Trưởng của Sư Đoàn 1 Ký binh Mỹ,
– các Tiểu Đoàn Trưởng Pháo binh Mỹ,
– các Phi Công thuộc Không Lực và Lục Quân Mỹ,
– các Sĩ Quan Quan Sát Viên Không Lực Mỹ,
– các Sĩ Quan Lực Lượng Đặc Biệt Mỹ,
– các Sĩ Quan Biệt Cách Dù VN,
– và các Tiểu Đoàn Trưởng của Lữ Đoàn Dù VN.

Điểm đặc biệt cần nêu lên thêm là Đại Tá Hiếu đã khôn khéo đoán biết Bộ Tư Lệnh Mặt Trận B3, thay vì dùng chiến thuật tĩnh động như thường khi, lần này chuyển qua chiến thuật “phục kích di động” tại Pleime; và đã đối phó lại với một phương thức phản phục kích bằng cách trì hoãn bước tiến quân của Chiến Đoàn Thiết Giáp Bộ Binh vài ngày, từ 21 tháng 10 mãi đến ngày 23. Hơn nữa, chính Đại Tá Hiếu đã dự kiến cách chính xác ngã ngách rút quân của địch và đưa Lữ Đoàn Dù VN từ tận Sài Gòn đến khu rừng rú bát ngát của rặng núi Chu Prong, thả quân trúng phóc vào các vị trí ngăn cản địch với thành quả đóng hộp phục kích hai tiểu đoàn sống sót của Việt Cộng.

Nguyễn Văn Tín
06 tháng 03 năm 2008

VỚI MỘT BÀI VIẾT KHÁC VỀ TRÂN LA DARANG

LỜI DẪN NHẬP

Năm 1965 cuộc chiến Việt nam đã đi vào khúc quanh lịch sử khi người Mỹ bắt đầu ào ạt chuyển quân trực tiếp tham chiến tại mặt trận. Trước đó họ chỉ giữ vai trò cố vấn cho QLVNCH.

Với thâm ý, đánh phủ đầu Bắc quân với chiến thuật dụng binh thần tốc bằng trực thăng đựọc B52, Skyraider và phản lực không yểm, phối hợp cùng pháo binh, 3 tiểu đoàn thiện chiến Mỹ, được tung vào vùng thung lũng Ia Drang, nằm tại phía nam Pleiku và đường 19 phía Bắc của Ban Mê Thuột và cách căn cứ lực lượng đặc biệt Pleime chừng 16 dặm.

Tại đây, quân Mỹ đã đụng độ với 3 trung đoàn chính quy Cộng sản và tiểu đoàn H15 của Mặt trận Giải Phóng.

Trận quần thảo xẩy ra vào ngày 14-11-1965 và kêt thúc ngày 18-11-1965.

Tổng kết thiệt hại được ghi nhận như sau: 1037 cộng quân bỏ xác tại chỗ. Thành phần bị thương và xác chết được chúng kéo đi không ai kiểm chứng được chính xác là bao nhiêu. Phía Mỹ: 235 tử thương và 245 bị thương nặng nhẹ vũ khí bảo toàn.

Cả hai bên đều tuyên bố thắng trận. Phần đầu của bài viết này tường thuật trận đánh tại 2 bãi đáp X Ray và Albany.

Phần sau phân tích, bình luận và nói lên một số sơ hở từ phía Mỹ.

Để thêm phần linh động và nhân bản, một số tự thuật từ chính những người lính Mỹ đã tham dự trận đánh sẽ được xen kẽ trong bài viết.

***

Nói đến chiến cuộc Việt Nam là phải nói đến trực thăng vận. Hình ảnh từng đoàn trực thăng vần vũ đổ quân, vận chuyển cũng như khạc đạn, đã là những hình ảnh dính với chiến trường tàn khốc của nam Việt nam.

Ít người được biết cha đẻ của chiến thuật trực thăng vận là Trung Tướng James M.Gavin, nguyên tư lệnh sư đoàn 82 nhẩy dù Hoa Kỳ trong đệ nhị thế chiến. Sau này, ông chỉ huy ngành điều nghiên chiến thuật cho bộ binh Hoa Kỳ. Chính trong những ngày giữ nhiệm vụ vừa kể, ông đã ôm ấp ý tưởng một ngày nào đó, trực thăng sẽ thay thế đôi chân của người lính bộ binh để dùng ưu thế tốc độ, dáng lên đầu địch những đòn sấm sét, rồi lui quân chớp nhoáng, trước khi địch kịp hoàn hồn.

Bộ trưởng Quốc Phòng MC Namara tán đồng kiểu dụng quân này nên vào giữa tháng 5-1962 đã ra lệnh cho lục quân sản xuất hàng loạt trực thăng UH-1+ HUEY, CH.47, CHINOOK.

Định mệnh đã an bài, thung lũng Ia Drang thành tuyến thử lửa đầu tiên giữa lực lượng cơ giới siêu việt, phối hợp trực thăng vận và không yểm cùng pháo binh của Hoa Kỳ đụng đầu với đạo quân cuồng tín mang dép râu, binh phục luộm thuộm quanh năm ăn cơm hẩm cá thiu cuả Hànội.

Phần đầu của bài viết thuật lại trận chiến xuất phát từ bãi đáp X-RAY rồi tiến quân theo hướng Đông Bắc chiếm baiõ Columbus và kết thúc tại bãi đáp Albany.

Trước hết tưởng cũng nên nói qua về lý do dẫn đên cuộc đụng độ đầy máu lửa này.

Hà Nội đã có một quyết định quan trọng vào mùa hè năm 1964. Khởi đầu từ xung đột giữa hai quan niệm chiến thuật, Võ Nguyên Giáp chủ trương leo thang chiến tranh chậm nhưng chắc ăn bằng cách cung cấp khí giới và lương thực tối đa cho lực lượng du kích tại miền Nam để làm hao mòn QLVNCH rồi mới tổng tấn công. Ngược lại, đám tướng trẻ muốn tung quân chính quy ồ ạt vào chiến trường cao nguyên rồi thừa thắng tràn xuống đồng bằng. Hồ Chí Minh đồng ý với gỉai pháp sau này, cho nên để khởi đầu, khi muà mưa lũ chấm dứt vào tháng 10-1965, ba trung đoàn thiện chiến chính quy xuôi Nam với ý định vây hãm và dứt điểm căn cứ lực lượng đặc biệt của miền Nam tại Pleime. Đồn này có 12 cố vấn Mỹ với hơn 400 lính thượng.

Mưu đồ của Hànội là vây hãm Pleime để buộc QLVNCH sẽ phải đến gỉai vây, rồi dùng chiến thuật cố hữu “Công đồn đả viện” tiêu diệt lực lượng tiếp cứu, chắc chắn sẽ phải rời Pleiku xuôi Nam trên đường 14 rồi đi theo hướng Tây Nam đường liên tỉnh 5. Tại đây, một trung đoàn Cộng sản nằm chờ sẵn để phục kích. Sau khi đã dứt điểm đoàn quân cứu viện, bọn chúng sẽ thanh toán Pleime rồi Pleiku, để từ đó theo đường 19 ào ạt tiến về Quy Nhơn và biển Đông.

Cộng sản cũng hiểu rằng ai kiểm soát được đường 19 sẽ làm chủ được cao nguyên, ai chiếm được vùng cao điểm này sẽ khống chế được toàn cõi Đông Dương.

Vào khoảng tháng 11 năm 1965, cộng quân đang vây hãm đồn Pleime, cách Pleiku chừng 25 dặm về phía nam. Không biết con gái tỉnh lỵ này đẹp cỡ nào nhưng hình ảnh “Em Pleiku má đỏ mội hồng, ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt” đã nói lên rất đầy đủ về thời tiết mây mù se lạnh của vùng đồi núi chập chùng vây phủ này.

Lữ đoàn 3 sư đoàn 1 không kỵ Hoa Kỳ được tung vào trận địa để truy lùng, tiêu diệt (Search and destroy) địch quân đang bám quanh Pleime như đỉa đói.

Người Mỹ quyết định đổ quân xuống một bãi đáp được đặt tên là Xray, nằm cạnh rặng núi Chu Pong nhìn xuống thung lũng IA Drang. IA có nghĩa là sông (tiếng của người thượng) cho nên vùng naỳ các dòng sông đều mang tên là IA như IA Meur, IA Toe. IA Drang được mệnh danh là thung lũng tử thần, vì đây là thánh địa của cộng quân, cửa ngõ xâm nhập toàn thể vùng cao nguyên Nam Phần VN.

Địa thế vùng này không nhiều cây nhưng khá um tùm, nhiều lạch khô và đặc biệt nhiều cỏ voi cao ngang đầu người bao quanh nhiều gò mối khổng lồ, to như một căn nhà chòi.

Tiểu đoàn 1 của trung đoàn 7 được trực thăng vận xuống Xray, lãnh nhiệm vụ tiên phong. Trung tá Harold G.Moore, 42 tuổi, xuất thân trường võ bị West Point lớp 1945, làm Tiểu đoàn Trưởng..

Sau 30 phút, hỏa lực pháo binh, hỏa tiễn, không quân cày nát vùng bãi đáp, người lính Mỹ đầu tiên đặt chân lên IA Drang đúng 10:48 ngày 14-11-1965. Bộ chỉ huy tiểu đoàn cùng đại đội Bravo của Đại uý Henen hoàn tất đổ quân, trong đợt đầu. Toàn bộ bám trụ giữa bãi đáp thay vì bung ra bốn phía thiết lập vòng đai an ninh. Đây là lỗi lầm đầu tiên từ phía Mỹ ,sẽ đề cập đến trong phần 2. Không đầy 30 phút từ khi nhẩy xuống bãi đáp, tiểu đội của trung sĩ John Mingo đã bắt được một tù binh Bắc Việt không mang vũ khí. Y khai có 3 tiểu đoàn địch quân số chừng 1600 tên bộ đội do Trung tá Cộng sản Nguyễn hữu An chỉ huy đang đóng quanh ngọn Chu Pong.

Đúng 12:15, Cộng quân khai hỏa đầu tiên tấn công 3 trung đội cuả Đại đội Bravo, đang tuần tiễu phía tây bắc bãi đáp.

Bây giờ 3 đại đội của tiểu đoàn I trung đoàn 7, (1/7) đã có mặt đầy đủ. Với ĐĐ Charlie (C) thủ mặt Tây, ĐĐ Alfa (A) thủ phía Tây bắc, và ĐĐ Bravo (B) mặt đông bắc. Bộ chỉ huy Tiểu đoàn nằm phía Đông nam. Một dòng suối cạn chạy dài từ tây nam ôm sát bãi đáp lên hướng Đông Bắc một đọan rất xa; theo dòng suối cạn sẽ lên gần tới bãi đáp Albany xa khoảng 3 dặm hướng bắc.

Lúc bị tấn công, 2 trung đội dàn hàng ngang đi trước, với một trung đội đi sau. Cộng quân tập trung hỏa lực bắn xối xả vào hai trung đội đi đầu và đã gây thiệt hại khá nặng cho hai trung đội này. Chính lúc này trung đội của Thiếu uý Herrick đuổi theo một đám địch quân ẩn hiện phía cạnh sườn phải và đã tiến xa hơn 100 thước, bị tách rời khỏi đại đội. Khi tới một khoảng trống, trung đội bất ngờ chạm trán hơn 50 địch. Herrick đủ bình tĩnh chỉ huy trung đội tấn công và giết hơn phân nửa số địch mà không bị tổn thất nào đáng kể. Tuy nhiên, cuộc chạm súng đã khiến cộng quân bu lại bao vây nên Herrick cấp tốc liên lạc với đại đội, đồng thời thiết lập chu vi phòng thủ tại một gò đất. Súng và lựu đạn của hai bên thi nhau nổ liên hồi. Trong vòng 25 phút đã có 5 lính Mỹ bị tử thương trong đó có trung đội trưởng Herrick. Trước khi hy sinh viên Thiếu uý này còn đủ bình tĩnh báo cáo số anh em bị thương vong cho đại đội, trao quyền chỉ huy lại cho trung sĩ Palmer, và ra lênh phá huỷ mật mã, đồng thời vẫn còn tỉnh táo gọi pháo binh bắn yểm trợ rồi buông máy ra đi. Nhưng cũng không lâu sau đó cả hai Trung sĩ Palmer và người tiếp quản là trung sĩ Stoke cũng bị đạn địch đốn ngã. Trung sĩ nhất Savage lên chỉ huy và liên tục kêu pháo binh nhả đạn chính xác quân địch đang bao vây tứ bề, tới lúc này trung đội đã có 8 người chết, 13 người bị thương. Nhưng nhờ sự bình tĩnh chỉ huy của Savage cũng như lòng can trường của y tá Charlie Lose, liều chết bò trườn dưới đủ mọi loại đường đạn của địch để băng bó thương tích cho đồng đội. Trung đội được mệnh danh là “xé lẻ” đã giữ vững vị trí chiến đấu trong suốt thời gian bị Cộng quân Bắc Việt bao vây và tấn công tại bãi đáp Xray.

Khỏang 2:30, đại đội D với quân số đầy đủ đuợc trực thăng vận đổ xuống, như vậy là TĐ 1/7 đã có mặt cả 4 đứa con A,B,C,D. Đại đội D đã vội vã cùng 3 đại đội kia lập tuyến phòng thủ vì cộng quân ngày càng tấn tới từ phía núi. Tiểu đoàn trưởng Moore gọi pháo binh và không quân yểm trợ tối đa. Từng đợt phản lực cơ F100 nhào xuống phóng hỏa tiễn, bắn đại bác xuống rặng Chu Pong. Đợt dội bom của Không quân vừa dứt, cộng quân với khoảng 400 tên từ Chu pong tràn xuống dọc theo dòng suối cạn, chia làm hai cánh tấn công trực diện đại đội A và đánh thốc vào cạnh sườn đại đội C với ý định chẻ lực lượng Mỹ ra làm hai. Tuy nhiên, tại cạnh sườn này đã được Trung tá Moore cho đặt hai cậy đại liên M.60 do các binh nhất Ladner và Adams là xạ thủ, cách nhau không quá 10 thước. Họ đã quạt liên tục, đốn ngã nhiều đợt tấn công của địch.

Thiếu uý Wayne, trung đội trưởng trung đội I của đại đội A, nhận xét:

– “Tôi thấy cộng quân tấn công như điên dại. Chúng tràn xuống từ phía rừng cây và chạy thục mạng trên dòng suối cạn. Chúng nó ngụy trang rất kỹ, mầu xanh cứt ngựa bạc phếch, lẫn lộn vào cỏ cây rất khó phân biệt. Bọn chúng rất kỷ luật và dường như không sợ chết.”

Đợt tấn công cuả Cộng sản bị khựng lại vì tổn thât khá nhiều. Chúng rút lui về phiá rừng cây sau những đám cỏ voi. Rảnh tay,Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội A và B lo di tản thương binh, đồng thời đi cứu viện trung đội bị xé lẻ đang bị áp lực nặng nề của địch. Hai đại đội tiến quân được chừng 70 thước dọc theo bờ suối thì bị một tổ đại liên của địch bố trí sau một gò mối, khạc đạn ồ ạt, gây nhiều tử thương cho binh sĩ. Thiếu uý Marm, nghiến răng, một mình bọc ra phía sau gò mối, tung từng đợt lựu đạn và bắn rỉa M.16 vào tổ đại liên địch, hạ sát tại chỗ 12 tên địch trong đó có tên sĩ quan chỉ huy của chúng.

Tới lúc này, chiều núi rừng đổ xuống thật mau. Trung tá Moore ra lệnh cho 2 đại đội quay trở lại vị trí xuất phát cố thủ qua đêm. Tạm thời kiểm điểm quân số thì đại đội B thiệt hạị 47 binh sĩ, đại đội A bị 34, đại đội C chỉ bị thiệt hại có 4 nguời.

Lợi dụng bóng đêm, cộng quân lại tấn công trung đội “xé lẻ” ba lần, nhưng đều bị đẩy lui vì súng, lựu đạn cũng như pháo binh đã rót rất chính xác bao quanh trung đội. Cộng quân đã dùng “Tù Và” thổi để thúc quân trong đêm tối, hòng uy hiếp tinh thần và mong dứt điểm đối phương.

Sáng hôm sau, khoảng 07:45, Cộng quân dốc toàn lực chia làm 3 mũi dùi tấn công Xray, áp lực nặng nề nhắm vào đại đội C. Vào lúc cao điểm khốc liệt nhất, Trung tá Moore gọi không quân yểm trợ. Nhiều phi tuần Skyraider thay nhau lồng lộn thả bom lửa Napalm, nhả đại bác 20ly xuống đầu địch.

Một phi tuần trưởng là Đại uý Wallace, khóa 1956 Westpoint diễn tả lọai máy bay này: “Khu trục cánh quạt Skyraider bay chậm chạp nặng nề nhưng bù lại bay đuợc lâu và mang được nhiều hỏa lực. Đôi cánh dài và rộng, có thể gắn vào đủ thứ bom đạn, trừ ra cái lò ga nấu bếp vì có thể quá nặng”. Sau Skyraider đến lượt F100 loại siêu kiếm rất phổ thông ở thời điểm này. (Sau đó mới tới loại F4, F5 đuợc đưa vào chiến trường VN).

Hai chiếc phản lực F100 bay tới đã thả napalm nhầm vào tuyến phòng thủ quân bạn gây nhiều tử vong cho quân bên dưới.

Khỏang 9:10 am, đại đội A của Tiểu đoàn 2 lữ đoàn 7 không kỵ đuợc tăng phái xuống trận điạ, phần còn lại của tiểu đoàn được thả xuống bãi Victor cách đấy chừng 3.5 cây số để tiến đên Xray.

Đến 10:00 sáng, cộng quân bắt đầu lui binh, sau khi bị tổn nặng. Phía Mỹ,đại đội C mất 42 tử thương và 20 bị thương sau 2 tiếng rưỡi giao trnh.

Thiếu uý Rescorda của đại đội B (bị tử nạn trong vụ khủng bố 9/11-New York) kể lại: “xác chết của đội bên vương vãi khắp nơi. Khá nhiều xác cộng quân đếm được quanh điểm đóng quân của trung đội tôi. Tôi tìm thấy hai xác lính Mỹ, một đen và một xì (latino) cùng chết trong một hố cạn. Có lẽ họ chết trong lúc đang cố gắng giúp nhau. Cũng có một xác cộng quân, tay vẫn còn khoá cổ một xác Mỹ khi đánh xáp lá cà.”

Dù cường độ ở trận chính đã suy giảm, trung đội xé lẻ dưới quyền chỉ huy của trng sĩ Savage vẫn chưa thoát gọng kìm cộng quân đang khóa chặt.

Trung tá Moore lệnh cho đại đội B và C cùng Bộ chỉ huy của ông đi cứu viện trung đội này. Vừa tiến quân ông vừa gọi pháo binh dập tối đa xuống vị trí đich, đang bao vây như ruồi bu điã mật .Cuối cùng, ông cũng bắt tay đuợc với trung đội xé lẻ. Trung đội này khi bắt đầu trận đánh, quân số 29 người, nay còn lại không đầy phân nửa.

Lực lượng Mỹ lại bố trí phòng thủ qua đêm thứ nhì. Trong đêm cộng quân với khoảng 300 tên lại tấn công quyềt liệt nhưng bị thiệt hại rất nặng vì lựu đạn gài và pháo binh. Nhiều đợt tấn công bị đẩy lui phần nhờ hỏa châu soi sáng được vận tải cơ C.123 thả đầy trên rừng núi khiến những tên lính cộng trở thành tấm bia rất rõ trong đêm cho lính Mỹ triệt hạ.

Tảng sáng ngày 16-11, tiểu đoàn 2/7 đã tới điểm hẹn Xray, bắt tay với tiểu đoàn 1/7.

Trận chiến tại bãi đáp Xray kể như chấm dứt. Quân cộng sản chính quy Bắc Việt đã bị thiệt hại cả ngàn tên, tạm thời không còn đủ khả năng tấn công. Bên Mỹ 179 tử vong, 121 bị thương nặng nhẹ.

Với tin tình báo, địch quân đang được tăng viện. Hai tiểu đòan di tản chiến thuật khỏi bãi Xray, cùng tiến về, bãi Albany cách đấy chừng 4 cây số hướng Đông bắc và bãi Columbus cũng 4 cây cùng phía. Đồng thời B.52 cất cánh từ đảo Guam đang trên đường tới trận địa sẽ trải thảm bom lên rặng Chupong.

Trên đường triệt thóai khỏi Xray, quân Mỹ thấy đầy vũ khí và xác người không nguyên vẹn của Cộng quân rải rác toàn vùng, từng vũng máu khô, lẫn với băng vải, balô.v.v.. Có chỗ xác địch nằm chồng lên nhau sau những gò mối. Ngoài ra họ cũng tìm thấy 4 xác lính Mỹ với giây thừng còn buộc nơi cổ chân. Chắc chắn những ngừơi không may này đã bị địch quân bắt làm tù binh và bị giết khi chúng tháo chạy về rừng. Cùng lúc này, thiếu uý Deal bắt gặp một tên địch còn sống nhưng bị thương nặng đang dựa lưng vào gò mối. Deal kể: “Tên này tuy đã trọng thương nhưng còn ráng dựa lưng vào gò đất. Y cố gắng rút trái lựu đạn từ túi áo. Trước khi chết y còn muốn cho lựu đạn nổ tung để cùng chết với quân thù. Y ráng thêm vài lần nhưng chỉ nhấc được trái lựu đạn lên vài phân rồi lại rơi xuống túi vì y đã quá yếu cuối cùng gục xuống. Chúng tôi đứng lặng nhình tên địch và khá cảm kích trước cảnh tượng này.”

Lúc đoàn quân ra khỏi vòng cương tỏa của Xray, đồng hồ chỉ 09:30 ngày 17-11-1965.

Trên đường đi lính Mỹ bắt gặp nhiều dấu dép râu còn in hằn trên đất, cỏ bị nghiền nát cũng như gạo khô rơi vãi tung tóe. Họ biết địch còn rình rập đó đây như những bóng ma.

Sau này được biết cộng quân lởn vởn vùng này gồm tiểu đoàn 8 trung đoàn 66, tiểu đoàn1 trung đoàn 33.

Thiếu úy Payne đang dẫn đầu trung đội trinh sát kể lại: “Chúng tôi vừa vòng qua một ụ mối cao khoảng 6 feet, bất chợt tôi thấy một tên địch đang ngồi nghỉ. Nhanh như chớp, tôi phóng tới bẻ quặt tay hắn ra phía sau rồi hô đồng đội túm cổ, đồng thời cách đó khoảng 10 yard một trung sĩ cũng bắt sống được một tên khác đang nằm ngủ. Hai địch quân đều có đủ khí giới, lựu đạn và balô, nhưng cả hai run lẩy bẩy, khiếp sợ, và dường như bị sốt rét. Bắt được tù binh Trung tá Mc Dade cho lệnh đoàn quân dừng chân nghỉ mệt rồi ông đích thân thẩm vấn 2 tên Việt cộng.

Đoàn quân đã quá mỏi mệt vì trải qua 60 tiếng không ngủ và cuốc bộ cũng cả 4 tiếng đồng hồ. Khoảng 1 tiếng sau khi nghỉ chân, lính Mỹ đã tới khoảng rừng trống mang tên Albany. Trung đội trinh sát của Thiếu Úy Payne không ngờ mình chỉ cách địch quân khỏang 150 mét. Đây là ban tham mưu của Tiểu đoàn 3 trung đoàn 33 với quân sô 550 tên.

Lợi dụng lúc quân Mỹ đang nằm ngồi ngổn ngang nghỉ mệt, Cộng quân hàng trăm tên đồng loạt xung phong. Một cánh đánh trực diện đoàn quân của tiểu đoàn 2/7 đang trải dài và cánh khác đánh vào cạnh sườn phía đông. Đội hình phục kích giống như chữ L. Trận đánh đẫm máu này kéo dài 16 tiếng.

Vì bị tấn công thình lình mà địch quân quá gần kề, cả hai bên xử dụng chiến thuật xáp lá cà. Lựu đạn, lưỡi lê đâm và quật nhau tay đôi được tận dụng. Mc Dade và Bộ tham mưu phóng nhanh tới một khoảng cây được 3 gò mối lớn bao quanh làm cứ điểm cầm cự, gọi không quân, pháo binh và chờ tăng viện. Tại đây dù chỉ gồm có trung đội trinh sát, trung đội I đại đội A làm lực lượng phòng vệ họ đã đẩy lui được nhiều đợt tấn công của địch.

Ngay trong vài phút đầu, bên Mỹ đã thiệt hại 45 chết, 50 bị thương. Tiếng đạn hoà cùng tiếng hò hét của đôi bên tạo thành một âm thanh cuồng nộ bao phủ vùng IA Drang. Đồng hồ chỉ 01:26pm. Đợt xáp lá cà qua đi cả hai bên đều lẫn lộn quần thảo nhau trong một vùng cỏ voi rậm rì.

Lúc cường độ trận đánh chậm lại, Thiếu úy Gwin của Đại đội A ôm cây M.16 leo lên đỉnh một gò mối, bắn sẻ vào những tên địch đang lẫn lộn ẩn hiện trong cỏ voi. Gwin kể lại:

– “Tôi nhớ đã hạ được 10 haỵ tên địch, tôi không bao giờ quên được những phản xạ khác nhau của những tên này lúc bị trúng đạn. Có tên lảo đảo gục xuống, có tên như bị cả một xe truck húc văng lên rồi rơi cái bịch xuống đất. Lúc đó tôi không biết địch đang xục xạo tìm lính Mỹ bị thương để giết từng ngừơi một. Chúng nó thật tàn ác.”

Sau một hồi lâu bắn nhau như những “Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm”, vì tầm nhìn bị cỏ voi che lấp, lính Mỹ lần mò thu về một mối và thiết lập được tuyến chiến đấu tương đối phân biệt được bạn, thù.

Lệnh mở khói mầu được ban hành vì khu trục Skyraider đang tới. Khói mầu đủ loại bay lên cao quyện vào cây rừng và cỏ voi làm thành một đường ranh đủ mầu sắc. Cộng quân tiến về phía quân Mỹ, vừa đi vừa nhắm bắn xuống đất, chắc chắn chúng đang thanh toán các chiến sĩ Mỹ bị thuơng quằn quại trong đám cỏ voi.

Đúng lúc này phi tuần khu trục đầu tiên ập tới như những hung thần từ trời cao bổ xuống rải bom napalm lên đầu địch. Thiếu Uý Gwin kể tiếp:

– “Sức tàn phá của napalm thật khủng khiếp. Lửa và lửa liếm ngọn cây và rồi chầt lân tinh lỏng đỏ rực phụt xuống qua cành cây tưới lửa lên đầu đám cộng quân dẫy dụa. Có tên chạy được vài bước, quần áo cháy phực như những ngọn đuốc. Có tên quay quắt trong giây lát như con heo quay trong lò. Quân Mỹ được dịp hò la khoái trá, chỉ trỏ từng mục tiêu xa, gần bị napalm nướng sống””

Sau đợt bom lửa, từng phi tuần Skyraider thay phiên nhau thả bom 250 pound và bắn đại bác 20 ly xuống đám cộng quân đang hỗn loạn chạy tìm đường sống.

Trung sĩ Shadden của đại đội D bị thương nặng không nhúc nhích nổi nằm chờ hành quyết, vì ông đang nằm trên đường tiến tới của đám cộng quân đi tìm lính Mỹ bị thương để giết. Chắc mẩm mình không còn sống nổi, ông đã gài lựu đạn dưới bụng để ít nhất cũng nướng được vài tên địch cùng chết. Ông nhớ lại:

– “Đúng lúc chừng 6, 7 tên đang phóng tới tôi thì một khu trục lướt qua khỏi ngọn cây buông nguyên môt bom lửa rất chính xác xuống bọn này. Sức nóng của napalm phụt qua mặt tôi, rát như một lò lửa. Tôi đã nợ viên hoa tiêu này cả một đời người.”

Vào khoảng 4:30 pm, quân cứu viện của tiểu đoàn I lữ đoàn 5 không kỵ đến kịp từ bãi đáp Columbus, bắt tay với đại đội A nằm phía bìa của tuyến phòng thủ Mỹ. Một bãi đáp dã chiến đã được thiết lập để di tản thương binh.

Cả tuyến phòng thủ cũng đã được thiềt lập để lực lượng Mỹ đồn trú qua một đêm. Một số lính Mỹ vừa bị thương vừa bị lạc đồng đội còn rơi rớt quanh vùng. Một số may mắn tìm được về đơn vị nhưng một số khác đã bị bỏ mạng, hoặc bị địch quân xử tử

Hôm sau, thứ sáu ngày 18-11, trận chiến kể như tới hồi kết thúc. Xác chêt của đôi bên nằm rải rác khắp chiến địa.

Tại bãi đáp Albany, 155 lính Mỹ tử thương và 124 bị thương.

Để kết thúc cho phần tường trình trận đánh Ia Drang, người viết kể ra nơi đây chuyện mưu sinh thoát hiểm của người lính Mỹ cuối cùng vẫy tay chào Ia Drang đúng 7 ngày sau khi trận kịch chiến chấm dứt. Tên anh là Tony Braveboy, người da đỏ, bộ lạc Creek, taysúng cuả đại đội A tiểu đoàn 2 lữ đoàn7 không kỵ. Ngày 17-11 ngay đợt khai hỏa đầu tiên của cộng quân nhắm bắn lính Mỹ tại bãi Albany, anh đang dẫn đầu tiểu đội khinh binh thuộc trung đội I. Lloạt đạn này đã hất văng khẩu M.16 khỏi tay anh và bàn tay trái bị trúng đạn. Mất khí giới, máu nhỏ giọt từ bàn tay, anh nhào xuống đám cỏ voi rậm rì nằm trú ẩn, tự băng bó vêt thương, đợi đêm xuống, anh bò đi và gặp được ba đồng đội khác cũng bị thương nặng không nhúc nhích được. Anh trườn người đi về hướng súng và gặp thêm nhiều đồng đội khác cũng bị thương; cùng lúc ấy một nhóm địch quân đi qua và thấy họ. Anh nằm gỉa chết, trong khi tai nghe tiếng súng cộng quân hành hình những đồng đội bị thương thiếu may mắn. Khi thấy tứ bề đã yên tĩnh, anh tiếp tục bò trườn trong đám cỏ voi về phía anh tưởng đại đội đóng quân, nhưng vì không còn ý thức về phương hướng, anh đã di chuyển ngược 180 độ khỏi đơn vị. Đến sáng hôm sau, anh tới bờ một nhánh sông nhỏ của dòng Ia Drang, cách xa bãi Albany khoảng 500 yard. Anh chỉ còn đeo bên mình một bi đông nước và một viên thuốc lọc nước uống. Anh xé aó băng bàn tay trái vẫn còn rỉ máu rồi chui vào một bụi rậm ẩn. Tại đây anh thấy địch quân di chuyển dọc bờ sông nhưng không thấy anh đang nằm trong lùm cây.. trong khi tiếng trực thăng bay trên đầu nghe rõ mồn một.

Ngày 22-11, ngày thứ năm lạc lõng đơn thân độc mã, một đoàn cộng quân đi qua chỗ anh nằm trong bụi, tình cờ tên lính cuối cùng nhìn vào và thấy anh. Braveboy kể:

– “Tên địch này nhìn vào mắt tôi. Hắn đưa súng lên nhắm ngay tôi. Trong một phản ứng tự sinh tồn, tôi đã dơ bàn tay bị thương lên và lắc đầu. Hắn hạ súng xuống và bỏ đi. Hắn còn trẻ lắm, chỉ chừng 16 hay 17 là cùng”.

Không quân tiếp tục oanh tạc bãi Albany và vùng phụ cận. Anh không hiểu tại sao mình có thể sống sót khi bom nổ tứ phiá chung quanh anh.. Sau bẩy ngày đêm không lương thực và bàn tay bị thương rỉ máu hành hạ, anh đã yếu lắm rồi, đang nằm trong trong bụi, chợt nghe tiếng trực thăng bay rất thấp, anh bò lết tới một khoảng trống nhỏ, gỡ chiếc áo lính đẫm máu ra khỏi tay trái và cầm nó vẫy lia lịa.

Melvus Hall, xạ thủ đại liên trên trực thăng, nhìn xuống thấy anh tưởng là VC nên nhắm anh tính ria một tràng đại liên M.60, nhưng phi công Moore kịp thời bảo viên xạ thủ khoan bắn vì dáng người đứng vẫy có vẻ to lớn hơn khổ người,Việt nam. Moore liên lạc với một trực thăng võ trang bao vùng và anh hạ cánh bốc Braveboy lên tầu

Braveboy chỉ bị cưa một ngón tay. Gia đình anh đang ở thành phố Coward South Carolina đã được thông báo là anh bị mất tích và có lẽ anh đã tử vong, nhưng rồi người trở về từ “cõi chết” đã quy hoàn cố hương và gặp lại người thân.

Hơn 30 năm đã qua, trận IA Drang từng được xưng tụng là chiến thắng ngoạn mục của quân đội Hoa kỳ. Thật ra, theo nhiều nhà bình luận là một thảm họa mà trong đó hơn 300 bộ binh Mỹ thiệt mạng vì cấp chỉ huy quờ quạng vụng về. Hỏa lực yểm trợ thật hùng hậu từ B52, khu trục, phản lực cơ và pháo binh cộng với tốc độ chuyển quân thần tốc của trực thăng vận và lòng dũng cảm chiến đấu kiên cường của người lính, từng ấy ưu điểm đáng lý phải đè bẹp đối phương. Vậy mà để rồi cứ 4 lính Mỹ tham chiến tại IADrang thì có 1 người bỏ mạng, thế chủ động chiến trường tan theo mây khói và niềm tin vào một thế thượng phong của Hoa Kỳ cũng triệt tiêu.

Trước khi nói đến những sai lầm của cấp chỉ huy Mỹ tại Ia Drang, tưởng cũng nên nhắc lại vụ trung đội “xé lẻ” trong màn đầu của trận chiến.

Sau này Trung tá Moore, Tiểu đoàn trưởng TĐI Lữ đoàn 7 đã không hết lời chê trách Thiếu uý Herrick, trung đội trưởng “xé lẻ” là vô trách nhiệm, vấp phạm một lỗi lầm chiến thuật tai hại, tác phong tài tử và cầm binh cẩu thả. Nhưng Trung sĩ Savage, người cầm binh thay thế Herrick chỉ huy trung đội sau này, khẳng định tuy việc mang trung đội ra ngoài đội hình chiến đấu là bất lợi cho đại đội nhưng lại giúp cho tiểu đoàn rất nhiều, vì trung đội đã làm địch quân hoang mang không biết đâu là chủ lực để tấn công nên đã vô hình chung, gỉải toả áp lực cho tiểu đoàn. Cộng quân chỉ giết được 9 và làm bị thương 13 binh sĩ, nhưng ba lần tấn công đều bị đẩy lui. Khi tiểu đoàn đã giải cứu được trung đội, họ đã bắt gặp nhiều xác địch quân chất chồng lên nhau sau những gò mối, thịt xương vương vãi khắp nơi và rất nhiều vết máu chảy loang khắp cả một vùng xung quanh nơi bố trí của trung đội “xé lẻ”. Đó chính là điều may mắn lớn cho ông Moore.

Trở lại phần phân tích trận chiến, nhiều người đồng ý là lỗi lầm đầu tiên của ông này là đã không thu thập tin tức tình báo về bãi đáp Xray dù ông được thông báo trước 48 tiếng đồng hồ. Ông cần phải biết rõ về địch tình, địa thế và thời tiết. Ông chỉ lo tìm bãi đáp và không để ý đến địch quân dù biết rằng quân số địch ước tính cả trung đoàn

Cuối cùng, ông chọn Xray chỉ cách Pleime 14 dặm và quá gần Cambốt và nằm lọt thỏm ngay trong ổ kiến lửa là trung đoàn 66 quân CS Bắc Việt- Cộng quân chỉ có một quãng không xa là vượt biên giới, vào khu bất khả xâm phạm. Thay vì cho một trung đội thám sát nhảy xuống trước thăm dò mục tiêu, ông cho nguyên cả tiểu đoàn nhập cuộc. Hậu quả là khi chạm địch bất ngờ ông mới lo chống trả và phản ứng. Cũng vì vậy ông đã vô hiệu hoá pháo binh của chính mình nhiều lần, bởi bạn, thù quá gần và kể cả lẫn lộn với nhau. Điều này cũng cắt nghĩa tại sao khi quân Mỹ vừa đặt chân xuống bãi Albany là bị khai hỏa bất ngờ, cuộc chạm trán nẩy lửa chỉ xẩy ra trong một phạm trường chưa đầy 500 mét dài,50 mét rộng. Không đầy 30 phút quân Mỹ đã bị tử vong 155 lính và bị thương 124 người khác..

Cấp chỉ huy không lưu tâm đến an ninh tình báo cũng được thể hiện rõ rệt khi quân Mỹ rời Xray đi Albany. Tiểu đoàn trưởng Trung tá MC Dade thú nhận sau này: “Khi rời Xray chúng tôi mù tịt về Albany, thượng cấp chỉ ra lệnh chúng tôi tiến đến đó để thiết lập bãi đáp.”

Lính Mỹ đã kiệt quệ sau 60 giờ mất ngủ lại phải di hành đội hình hàng dọc dưới cái nắng thiêu đốt cuả cao nguyên, nên khi chạm địch, họ đã bị lọt vào thế hạ phong.

Địch quân cũng bất ngờ chạm trán đối phương, nhưng cộng quân đã có thể gom quân mau hơn để tấn công một đoàn quân trải dài. Hậu quả là quân Mỹ bị cắt làm nhiều mảnh rời rạc, từng toán quân chiến đấu riêng lẻ để sống còn, không thể phối hợp cùng đại đội hay tiểu đoàn. Và như vậy quân Mỹ không thể thiết lập tuyến phòng thủ chung nên bị tứ bề thọ địch, không người chỉ huy. Ngay cả Trung tá Mc Dade lúc chạm súng cũng không thể ra lệnh gì được và cũng thục mạng tìm chỗ tránh đạn như binh sĩ dưới quyền, đến nỗi khi Đại Tá Brown, Lữ đoàn trưởng, từ trực thăng thị sát mặt trận gọi Mc Dade cho biết tình hình, ông này ứ ớ khộng biết báo cáo làm sao. Ông may mắn không là sĩ quan VNCH vì nếu ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự như ông, chắc chắn ông đã nhận đầy tai những danh từ hoa mỹ, ngôn ngữ “đan mạch va đức”từ trực thăng chỉ huy rồi.

Một điểm sinh tử là quân Mỹ ỷ lại vào ưu thế hỏa lực yểm trợ hơi nhiều. Tâm lý này đã bắt nguồn từ Đệ II thế chiến và ngay cả cấp chỉ huy cũng muốn tận dụng hỏa lực từ pháo binh và tầu bay để giảm thiểu tối đa cho quân sĩ tại mặt trận. Nhưng nếu chiến thuật này thích hợp cho chiến trường Âu Châu, Sa mạc Phi Châu thì lại không thể áp dụng cho chiến trường Việt Nam được. Pháo binh và không yểm chỉ hiệu qủa khi xác định được vị trí địch.

Tại Việtnam như điển hình là ở IA Drang, địch quân như bóng ma, lúc ẩn lúc hiện, chạm địch thì hai bên đã cận kề. Hơn nữa quân Mỹ lầm tưởng khi lâm trận, hỏa lực pháo binh, không quân sẽ tàn sát địch quân thay cho mình. Do đó hỏa lực yểm trợ và lực lượng tham chiến phải phối hợp như hai gọng kềm cùng lúc xiết chặt đối phương thì mới có thể hạ gục địch thủ. Thực tế, hai gọng kìm đã không xiêt chặt địch cùng một lúc thì làm sao đạt được kết quả mong muốn

Một điểm cuối cùng nêu lên ở đây là lính Mỹ được huấn luyện rất kỹ tại quân trường vê kỹ thuật và phương cách tác chiến nhưng thiếu hiểu biết về chiến thuật. Họ học tường tận binh khí và gọi hoả lực yểm trợ. Nhưng họ không thể áp dụng mau lẹ những điều đã học khi đụng trận. Quân trường nhồi khoá sinh rất kỹ lý thuyết nhưng quên một điểm tối quan trọng là địch quân không phải là những tấm bia bất động chúng gian xảo, lủi nhanh, ẩn hiện như ma quỷ sát hại trong tích tắc.

LỜI KẾT.

Nhiều quyết định quan trọng đã được Hoa Thịnh Đốn cũng như Hà Nội đưa ra, vào cuối năm 1965 do những kinh nghiệm và bài học được rút tỉa từ Ia Drang đủ nói lên tầm vóc của trận đánh này.

Tại Hà Nội, Võ nguyên Giáp tuyên bố, nhờ Ia Drang cộng quân có thể thắng chiến tranh vì họ đã biết hóa giải ưu điểm của trực thăng và đánh gục được không kỵ Mỹ.

Hồ Chí Minh cũng vuốt râu tự đắc và tự tin vì kết quả cuả IA Drang và trong trận này. Đạo binh dép râu của Hà Nội đã chống trả hỏa lực hùng hậu của một siêu cường. Ít nhất đã thủ hoà đã là thắng thế theo tiêu chuẩn của Hà Nội.

Tại Sài gòn, Tướng Westmoreland và bộ tham mưu thì lại nhìn vào thống kê của chiến dịch Ia Drang – 305 lính Mỹ chết đổi lại 3561 cộng quân tử trận – hay tỷ lê 1/12 -12 cộng quân đổi 1 lính Mỹ – Để suy diễn cuộc chiến Việt Nam với phần thắng phải nghiêng về Miền nam. Ít lâu sau đó trong một lần kinh lý Bộ Trưởng Quốc Phòng, Mc Namara bay ra An Khê để nghe Tướng Kinnard, Tư lệnh Sư đoàn Không kỵ và tiểu đoàn trưởng Moore thuyết trình. Trong 20 phút báo cáo chiến sự IA Drang đã phác họa cho Mc Namara một hình ảnh những cộng quân chiến đấu rất kỷ luật và quyết chí đến độ cuồng tín trong những đơt xung phong từ rừng núi.

Mc Namara nghe xong chỉ mím mội im lặng suy nghĩ

Trên tầu bay về nước ông đã thảo một công điện tối mật về Bạch Oác cho Tổng Thống Johnson. Ông khuyến cáo Johnson chỉ có hai giải pháp: Tìm giải pháp rút lui khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt hoặc chấp thuận đề nghị của Tướng Westmoreland tăng quân số từ 34 lên 74 Tiểu đoàn lính Mỹ trực tiếp tham chiến vào cuối năm 1966. Chúng ta đã biết Johnson chọn giải pháp nào.

Quả thật không ngoa khi trên tờ bìa quyển sách Hồi Ký Chiến trường IA DRANG, Tướng hồi hưu Harold Moore đã mệnh danh là trận đánh đã thay đổi cục diện chiến tranh Việt Nam.