T.T.Nguyễn Khoa Nam

Nguyễn Khoa Nam (1927-1975), nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tiên ở trường Sĩ quan Trừ bị do Chính phủ Quốc gia Việt Nam, được sự hỗ trợ của Pháp mở ra ở Nam phần. Ra trường, ông gia nhập vào đơn vị Nhảy dù và đã phục vụ trong Binh chủng này một thời gian dài, tuần tự giữ những chức vụ từ Trung đội trưởng… đến Phó Tư lệnh Sư đoàn. Đầu năm 1970, ông chuyển nhiệm vụ sang Bộ binh và giữ chức Tư lệnh Sư đoàn. Sau cùng ông đảm trách chức vụ Tư lệnh một trong 4 Quân đoàn và Vùng chiến thuật của Quân lực Cộng hòa. Sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 xảy ra, ông là một trong 5 tướng lĩnh của Việt Nam Cộng hòa đã tự sát.[2]
Tiểu sử & Binh nghiệp                            nguyenkhoanam

Ông sinh ngày 23 tháng 9 năm 1927, trong một gia đình khoa bảng “Danh gia vọng tộc” tại Đà Nẵng, miền Trung Việt Nam, có nguyên quán ở làng An Cựu Tây, huyện Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam. Thời niên thiếu, ông học Tiểu học tại trường Ècole des Garcons, Đà Nẵng. Lên Trung học theo chương trình Pháp, nội trú ở trường Quốc học Huế (Lycėe Khải Định). Năm 1946, ông tốt nghiệp với văn bằng Tú tài bán phần (Part I). Sau đó, thi vào trường Hành chánh ở Huế (hệ Cao đẳng). Năm 1951, ông tốt nghiệp và được bổ dụng làm công chức tại Sở Ngân sách Trung Việt, một năm sau giữ chức vụ Chủ sự phòng.
Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 3 năm 1953, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia Việt Nam, mang số quân: 47/291.065. Theo học khóa 3 Đống Đa tại trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức thuộc Trung đội khóa sinh số 16, khai giảng ngày 1 tháng 4 năm 1953. Ngày 1 tháng 12 cùng năm mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy. Ra trường gia nhập đơn vị Nhảy dù, ông được cử làm Trung đội trưởng thuộc Đại đội 1 trong Tiểu đoàn 7 Nhảy dù. Sau đó, ông được theo học khóa Nhảy dù cấp tốc tại Bến phà Đen (gần Bệnh viện Đồn Thuỷ), Hà Nội. Đến tháng 3 năm 1954, ông được tăng phái cho Tiểu đoàn 3 Nhảy dù. Một tháng sau, ông được đi thụ huấn khóa Đại đội trưởng tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Mãn khóa về lại đơn vị, ông được cử giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn 7 Nhảy dù. Tháng 8 cùng năm, ông theo đơn vị từ Hà Nội bằng đường Không vận di chuyển vào Nam đồn trú tại Đồng Đế, Nha Trang.[3]
Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Năm 1955, sau khi Quân đội Quốc gia đổi tên sang tên mới là Quân đội Việt Nam Cộng hòa, Tiểu đoàn 7 giải tán để bổ sung quân số cho 2 Tiểu đoàn 3 và 5. Ông được cử đi du học lớp Huấn luyện viên Nhảy dù trong vòng 8 tháng tại Pau, Pháp. Mãn khóa, trở về phục vụ tại Tiểu đoàn Trợ chiến Nhảy dù do Đại úy Nguyễn Thọ Lập làm Tiểu đoàn trưởng. Tháng 12 cuối năm, ông được cử làm Đại đội trưởng Đai đội Kỹ thuật trong Tiểu đoàn Trợ chiến thay thế Trung úy Ngô Xuân Nghị. Tháng giêng năm 1957, ông chuyển về Bộ chỉ huy Liên đoàn Nhảy dù phục vụ tại Phòng 3 (đặc trách hành quân). Tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Trung úy tại nhiệm. Đầu năm 1959, ông được cử làm Trưởng ban 3 của Tiểu đoàn 3 Nhảy dù.

Đầu tháng giêng năm 1961, ông được thăng cấp Đại úy tại nhiệm. Đến tháng 2 năm 1962, ông chuyển sang Tiểu đoàn 5 Nhảy dù giữ chức vụ Tiểu đoàn phó. Tháng 6 cùng năm, ông được cử đi Hoa Kỳ học khóa “Chiến tranh rừng rậm” (Tác chiến trong rừng) tại căn cứ Huấn luyện Lực lượng Đặc biệt Fort Bragg. Đầu năm 1963, ông được chuyển sang học tiếp khóa Bộ binh cao cấp tại trường Bộ binh Fort Benning.

Đầu tháng 2 năm 1964, sau cuộc Chỉnh lý các tướng lĩnh trong Hội đồng Quân nhân Cách mạng do tướng Nguyễn Khánh cầm đầu, ông được cử làm Trưởng phòng 4 tại Bộ tư lệnh Lữ đoàn Nhảy dù [4] do Đại tá Cao Văn Viên làm Tư lệnh. Tháng 7 năm 1965, ông được chỉ định vào chức vụ Tham mưu trưởng Chiến đoàn 1 Nhảy dù do Trung tá Bùi Kim Kha làm Chiến đoàn trưởng. Sau đó 2 tháng, ông được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 5 Nhảy dù thay thế Thiếu tá Hồ Trung Hậu. Ngày kỷ niệm Cách mạng 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Thiếu tá tại nhiệm.

Tháng 5 năm 1966, ông được ân thưởng Đệ tứ đẳng Bảo quốc Huân chương kèm anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu. Cuối tháng 6 cùng năm, ông được cử làm sĩ quan Phụ tá cho Đại tá Ngô Quang Trưởng Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh. Ngày lễ Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 cùng năm, ông được thăng cấp Trung tá. Tháng 12 cuối năm, ông được chỉ định giữ chức Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 3 Nhảy dù [5] tân lập. Đến tháng 4 năm 1967, ông được ân thưởng Đệ tam đẳng Bảo quốc Huân chương kèm Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.

Đầu tháng 1 năm 1969, ông được thăng cấp Đại tá tại nhiệm. Sau đó, ông được lệnh bàn giao Lữ đoàn 3 lại cho Trung tá Nguyễn Văn Thọ, để giữ chức vụ Phụ tá Tư lệnh Sư đoàn.

Trung tuần tháng Giêng năm 1970, rời Sư đoàn Nhảy dù để thuyên chuyển về Quân khu 4, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 7 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Hoàng được cử lên làm Phó Tư lệnh Quân đoàn IV. Ngày Quân lực 19 tháng 6 cùng năm, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm. Ngày Quốc khánh Đệ Nhị Cộng hòa 1 tháng 11 năm 1972, ông được đặc cách tại mặt trận thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm.

Giữa năm 1974, ông được cử làm Trưởng đoàn, hướng dẫn phái đoàn chiến sĩ xuất sắc thăm viếng Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) trong vòng 1 tuần lễ. Ngày Quốc khánh 1 tháng 11 cùng năm, ông được bổ nhiệm vào chức vụ Tư lệnh Quân đoàn IV & Quân khu 4 thay thế Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi được cử làm Chỉ huy trưởng Trường Bộ binh Thủ Đức.
Tự sát

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi biết tin của Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh cho toàn thể Quân lực Việt Nam Cộng hòa buông vũ khí để bàn giao cho quân đối phương, ông trấn an quân nhân các cấp trong Bộ tư lệnh và khuyên họ hãy rời nhiệm sở để trở về với gia đình. Sáng ngày 1 tháng 5, ông vận bộ quân phục Đại lễ của Quân đội, vào khoảng 6 giờ 30 sáng ông dùng súng Browning bắn vào màng tang tự sát tại chiếc ghế làm việc của mình trong tư dinh Tư lệnh ở trại Lê Lợi trên đường Hòa Bình, tỉnh Phong Dinh, nêu cao tinh thần “thành mất tướng tuẫn tiết theo thành”. Hưởng dương 48 tuổi[6]. Thi thể ông được Y sĩ Trung tá Hoàng Như Tùng (Y sĩ trưởng Quân y viện) đưa về quàn tại Quân y viện Phan Thanh Giản, Cần Thơ. Sau đó, đứng ra an táng ông trong Nghĩa trang Quân đội Cần Thơ. Ngày hôm sau, người chị ruột của ông (đã được báo tin từ chiều hôm trước) là bà Nguyễn Khoa Diệu Khâm (mẹ của Hải quân Trung tá Nguyễn Mạnh Trí) từ Sài Gòn xuống Cần thơ để dựng bia mộ cho ông.

Đến năm 1984, được người em dâu và người cháu gái từ Sài Gòn xuống Cần Thơ bốc mộ hoả thiêu, tro cốt đem về để tại chùa Quảng Hương Già Lam, địa chỉ số 498/11 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp, Thành phố HCM.[7]
————————
BÁCH KHOA TOÀN THƯ