Các Quân Đoàn, Quân Khu

Flag_of_the_ARVN_I_Corps.svg

 

Quân đoàn I là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải – Lục – Không quân. Đây là Quân đoàn thành lập đầu tiên vào năm 1957 và là một trong bốn Quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian tồn tại của mình, Quân đoàn I có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm 5 tỉnh phía Bắc lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa, giáp vùng lãnh thổ miền Bắc Việt Nam do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát, ranh giới đệm danh nghĩa là Khu phi quân sự vĩ tuyến 17. Đầu tháng 3 năm 1975, sau khi chiếm được quyền kiểm soát các tỉnh cao nguyên thuộc Quân khu 2 của Việt Nam Cộng hòa, chỉ trong vòng 25 ngày, lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lần lượt chiếm Huế, Đà Nẵng, đánh tan lực lượng của Quân đoàn I cùng các đơn vị Tổng trừ bị tăng cường tại đây. Các đơn vị còn lại của Quân đoàn I rút lui vội vã về phía Nam và được sát nhập vào Quân đoàn III để lập phòng tuyến Phan Rang. Quân đoàn I chính thức bị xóa sổ.
Hình thành

Tiền thân của Vùng I chiến thuật là Đệ nhị Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[1], là 1 trong 4 Quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ nhị Quân khu, tương ứng với vùng Trung phần Việt Nam, từ Bình Thuận trở ra Thanh Hóa. Tư lệnh đầu tiên là Trung tá Nguyễn Ngọc Lễ.

Năm 1954, địa bàn các Quân khu được điều chỉnh lại, trong đó Đệ nhị Quân khu điều chỉnh chỉ còn phần lãnh thổ Trung Việt kể từ ranh giới phía bắc tỉnh Quảng Ngãi trở lên.[2]

Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu[3]. Vùng lãnh thổ phía Bắc (tương ứng với Trung phần) thuộc Đệ nhị Quân khu, gồm các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và Thị xã Đà Nẵng. Tư lệnh đầu tiên của Đệ nhị Quân khu thời Việt Nam Cộng hòa là Thiếu tướng Thái Quang Hoàng.

Quân đoàn I được thành lập ngày 1 tháng 6 năm 1957 tại Đà Nẵng với nòng cốt là Sư đoàn 1 và Sư đoàn 2 Dã chiến, do Trung tướng Thái Quang Hoàng kiêm Tư lệnh đầu tiên. Địa bàn kiểm soát của Quân đoàn I hoàn toàn trùng lắp với địa bàn của Đệ nhị Quân khu.

Cuối năm 1961, các Quân khu được cải tổ thành các Vùng chiến thuật (trừ Quân khu Thủ đô đổi thành Biệt khu Thủ đô)[4]. Đệ nhị Quân khu được cải tổ thành Vùng 1 chiến thuật, từ đó có danh hiệu liên hợp Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật. Địa bàn của Vùng 1 được tổ chức thành các Khu chiến thuật: Khu 11 chiến thuật (gồm 2 tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên), Khu 12 chiến thuật (gồm 2 tỉnh Quảng Tín, Quảng Ngãi) và Đặc khu Quảng-Đà (gồm tỉnh Quảng Nam và thị xã Đà Nẵng). Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, chỉ huy các Tiểu đoàn Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số của một Sư đoàn nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị Chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.
Từ Biến cố Phật giáo 1963 đến Biến động miền Trung 1965

Tháng 5 năm 1963, nổ sự kiện Phật đản 1963 tại Huế. Chính phủ Ngô Đình Diệm sau những biện pháp xoa dịu không hiệu quả đã quyết liệt dùng những biện pháp cứng rắn, huy động lực lượng cảnh sát và quân đội để trấn áp phong trào Phật giáo. Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật bấy giờ là Thiếu tướng Lê Văn Nghiêm vì không chấp nhận dùng quân đội để đàn áp những cuộc biểu tình bất bạo động của Phật tử miền Trung ngày 16 tháng 9 năm 1963, nên bị triệu hồi về Sài Gòn đặt dưới quyền sử dụng của Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Quan chức cao cấp nhất của chính phủ Việt Nam Cộng hòa tại miền Trung bấy giờ là Hồ Đắc Khương, đại biểu chính phủ ở Trung nguyên Trung phần, cũng bị triệu hồi.

Mặc dù tạm thời dẹp yên được phong trào Phật giáo, nhưng mâu thuẫn chính trị, xã hội của Việt Nam Cộng hòa vẫn tiếp tục tăng cao dẫn đến cuộc đảo chính của các tướng lĩnh quân đội do tướng Dương Văn Minh cầm đầu tiến hành. Tuy nhiên, chỉ 2 tháng sau, Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng 1 chiến thuật là tướng Nguyễn Khánh đã bất ngờ đưa một số đơn vị dưới quyền vào Sài Gòn, thực hiện cuộc “Chỉnh lý”, tước quyền các tướng lĩnh cầm đầu Hội đồng Quân nhân Cách mạng, trở thành lãnh đạo tối cao trên thực tế của Việt Nam Cộng hòa. Tuy vậy, tướng Khánh cũng chứng tỏ ông không đủ năng lực để ổn định tình hình, dù ông đã cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ của người Mỹ khi tuyên bố hoan nghênh quân Mỹ tham chiến tại miền Nam. Cuối cùng, nhóm tướng trẻ đã hợp tác, truất quyền và đẩy tướng Khánh đi lưu vong.

Đến lượt các tướng trẻ lại lao vào tranh giành quyền hành, liên tiếp gây nhiều binh biến, khiến cho tình hình Việt Nam Cộng hòa không ngừng bị xáo trộn; các phong trào quần chúng nhân dân liên tiếp nổ ra, đòi hỏi dân chủ hóa đất nước, thiết lập Quốc hội Lập hiến, trở lại Chính phủ Dân sự. Với việc Chính phủ Trung ương cách chức tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Quân đoàn I và Vùng I chiến thuật, người công khai chỉ trích tướng Nguyễn Văn Thiệu (Chủ tịch Uỷ ban Lãnh đạo Quốc gia, còn gọi là Quốc trưởng) và tướng Nguyễn Cao Kỳ (Chủ tịch Uỷ ban Hành pháp Trung ương, còn gọi là Thủ tướng), những việc mà ông cho là bất công, tham nhũng; được xem là nguyên nhân trực tiếp làm nổ ra cuộc Biến động Miền Trung năm 1966. Mặc dù liên tiếp thay đổi vị trí Tư lệnh (4 tướng chỉ trong 3 tháng), lực lượng Quân đoàn I, với hầu hết binh sĩ theo đạo Phật, vẫn từ chối tuân lệnh Chính phủ Trung ương, đứng về phía những người biểu tình. Trước tình thế nguy cơ ly khai dâng cao, Chính phủ do tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng, quyết định dùng lực lượng quân Nhảy dù và Cảnh sát Dã chiến trấn áp biểu tình. Dù Biến động miền Trung được chấm dứt, nhưng việc chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải dồn sức để ổn định xã hội ở thành phố, khiến nỗ lực chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa suy yếu. Quân nhân, nhất là quân nhân Phật tử ngoài tiền tuyến, không an tâm chiến đấu vì hậu phương xáo trộn.
Từ năm 1959, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tổ chức tuyến đường Trường Sơn nhằm tiếp vận vũ khí và bổ sung cán bộ cho những người Cộng sản miền Nam. Sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập, Năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã thông qua kế hoạch phân chia địa bàn quân sự tại miền Nam Việt Nam. Theo đó, trên địa bàn tương ứng với Vùng 1 chiến thuật là các chiến trường B1 (thành lập 1961), B4 (thành lập 1966), B5 (thành lập 1964) và Quân khu 5 (thành lập 1961). Về danh nghĩa, các địa bàn quân sự này thuộc quyền chỉ huy của Bộ tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, trên thực tế trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam chỉ đạo tác chiến.

Về phía chính phủ Mỹ, trước thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt, Tổng thống Johnson và các quan chức chủ chốt Nhà Trắng, Lầu Năm góc, CIA đã tranh cãi gay gắt về các giải pháp của tướng Maxwell Taylor và một số người khác đưa ra, cuối cùng đã đi đến thống nhất quan điểm là chọn phương án đổ quân Mỹ vào miền Nam để giữ chính quyền Sài Gòn và để “chứng minh cho nhân dân Mỹ, cho đồng minh và cho kẻ thù về hình ảnh của một nước Mỹ siêu cường”. Vào lúc 9 giờ sáng ngày 8 tháng 3 năm 1965, Lữ đoàn 9 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đổ bộ vào bờ biển Đà Nẵng, đánh dấu sự khởi đầu tham chiến trực tiếp của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Là địa bàn địa đầu chiến tuyến, lực lượng quân Mỹ và đồng minh tại Vùng 1 chiến thuật tập trung những đơn vị lớn nhất, tinh nhuệ nhất, gồm các lực lượng của Sư đoàn 3 Thủy quân Lục chiến và Quân đoàn 24 của Hoa Kỳ, Sư đoàn Mãnh Hổ và Bạch Mã của Đại Hàn.

Tháng 6 năm 1967, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã tính toán một chiến lược có ý nghĩa quyết định, tạo bước ngoặt của cuộc chiến tranh. Phương án tổng công kích, tổng khởi nghĩa do Bộ Tổng tham mưu soạn thảo đã được thông qua sau đó, xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn – Gia Định, Đà Nẵng, Huế, hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 – Khe Sanh. Cụ thể là: cùng với đòn tiến công của bộ đội chủ lực ở hướng phối hợp chiến lược đặc biệt quan trọng là Đường 9 – Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, một đòn tiến công chiến lược đánh vào thành phố, thị xã quy mô trên toàn miền Nam, kết hợp với nổi dậy của quần chúng các đô thị và nông thôn, mở đầu cho tổng công kích, tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn – Gia Định, Đà Nẵng, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Đà Nẵng, Huế và các thành phố lớn. Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh, trước Tết Mậu Thân 10 ngày, Quân giải phóng sẽ nổ súng tiến công vào tập đoàn cứ điểm Khe Sanh để buộc Mỹ phải chú ý tập trung điều lực lượng chủ lực ra phía bắc đối phó, tạo điều kiện để giữ bí mật hướng trọng điểm và tiếp tục chuẩn bị.[5]

Trên cơ sở thông tin tình báo, phía Mỹ đã đưa ra một số dự đoán về cuộc tấn công, tuy nhiên về chiến lược, cả phía Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa đều bị bất ngờ cả về thời gian lẫn quy mô của cuộc tiến công. Mặc dù vậy, các lực lượng quân đội Mỹ tại hai tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên vẫn duy trì trong tình trạng chiến đấu, đề phòng các đơn vị lớn của Quân đội Nhân dân và Quân giải phóng ồ ạt tập kích qua vùng giới tuyến. Về phía Việt Nam Cộng hòa, sự lơ là thể hiện rõ hơn khi chỉ có mỗi Sư đoàn 1 dưới quyền tướng Ngô Quang Trưởng kịp ban hành lệnh cấm trại và chuyển sang tình trạng chiến đấu khi Sự kiện Tết Mậu Thân nổ ra.

Ngày 1 tháng 7 năm 1970, Vùng 1 chiến thuật được đổi tên thành Quân khu 1. Tổ chức Khu chiến thuật bị bãi bỏ.

Năm 1971 Việt Nam Cộng hòa tổ chức và thực hiện cuộc hành quân Lam sơn 719 xuất phát từ Quân khu 1 với mục tiêu là những cơ sở, binh trạm tiền phương và hậu cần của Quân đội Nhân dân của miền Bắc tại vùng Hạ Lào.
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn I vào đầu năm 1975.

Bộ Tư lệnh

Bộ Tham mưu
Sở An ninh Quân đội
Phòng 1 Tổng Quản trị
Phòng 2 Tình báo
Phòng 3 Tác chiến
Bộ chỉ huy Tiếp vận
Bộ chỉ huy Pháo binh

Đơn vị tác chiến trực thuộc

Sư đoàn 1 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Giạ Lê (Huế), phụ trách tỉnh Thừa Thiên
Sư đoàn 2 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Chu Lai (Quảng Ngãi), phụ trách các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi
Sư đoàn 3 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Ái Tử (Quảng Trị), phụ trách tỉnh Quảng Trị. Sau trận tan hàng mùa hè năm 1972 rút về đặt Bộ tư lệnh tại căn cứ Hòa Khánh (Đà Nẵng), phụ trách tỉnh Quảng Nam và Đặc khu Đà Nẵng.

Đơn vị tác chiến phối thuộc

Sư đoàn Dù
Sư đoàn Thủy quân Lục chiến
Hải khu 1 (còn gọi là Hải quân Vùng 1 Duyên hải)
Sư đoàn 1 Không quân
Lực lượng Biệt động quân (gồm các Liên đoàn 11, 12, 14, 15)
Lữ đoàn 1 Kỵ binh

Tiểu khu, Đặc khu trực thuộc

Tiểu khu Quảng Trị: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Quảng Trị. Gồm các Chi khu (Quận): Cam Lộ, Đông Hà, Gio Linh, Hải Lăng, Hướng Hóa, Mai Lĩnh, Triệu Phong và Yếu khu Thị xã Quảng Trị
Tiểu khu Thừa Thiên: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Huế. Gồm các Chi khu (Quận): Hương Điền, Hương Thủy, Hương Trà, Nam Hòa, Phong Điền, Phú Lộc, Phú Thứ, Phú Vang, Quảng Điền và Yếu khu Thị xã Huế (Gồm các quận Thành Nội, Tả Ngạn và Hữu Ngạn)
Tiểu khu Quảng Nam: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Hội An. Gồm các Chi khu (Quận): Duy Xuyên, Đại Lộc, Điện Bàn, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế Sơn, Thường Đức và Yếu khu Thị xã Hội An
Tiểu khu Quảng Tín: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Tam Kỳ. Gồm các Chi khu (Quận): Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý Tín, Thăng Bình, Tiên Phước, và Yếu khu Thị xã Tam Kỳ
Tiểu khu Quảng Ngãi: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Quảng Ngãi. Gồm các Chi khu (Quận): Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa và Yếu khu Thị xã Quảng Ngãi
Đặc khu Đà Nẵng: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Đà Nẵng. Phụ trách Yếu khu Thị xã Đà Nẵng (Gồm các quận 1, 2 và 3)
Các đời Tư lệnh

* Xuất thân từ Trường Sĩ quan
TT Họ tên Cấp bậc tại nhiệm Thời gian tại chức Ghi chú
1
Thái Quang Hoàng
Võ bị Tông Sơn Tây *
Trung tướng
(1956)
06/1957-10/1957
Tư lệnh đầu tiên. Chức vụ cuối cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan (1964)
2
Trần Văn Đôn
Võ bị Tông Sơn Tây
Trung tướng
(1957)
10/1957-12/1962
Chức vụ cuối cùng: Phó thủ tướng Đặc trách Thanh tra kiêm Tổng trưởng Quốc phòng (1975)
3
Lê Văn Nghiêm
Võ bị Pháp
Thiếu tướng
(1955)
12/1962-8/1963
Chức vụ cuối cùng: Giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc phòng (1965)
4
Đỗ Cao Trí
Sĩ quan Nước Ngọt
Vũng Tàu
Thiếu tướng
(1963)
Trung tướng
(1963)
08/1963-12/1963
Chức vụ cuối cùng: Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tử nạn trực thăng năm 1971, được truy thăng hàm Đại tướng
5
Nguyễn Khánh
Võ bị Liên quân
Viễn Đông Đà Lạt
Trung tướng
(1963)
12/1963-02/1964
Chức vụ cuối cùng: Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa (1964)
6
Tôn Thất Xứng
Võ bị Quốc gia
Huế Khóa 1
Thiếu tướng
(1964)
02/1964-11/1964
Chức vụ cuối cùng: Chỉ huy trưởng Đại học Quân sự (1964-1966)
7
Nguyễn Chánh Thi
Võ bị Địa phương
Nam Việt Vũng Tàu
Thiếu tướng
(1964)
Trung tướng
(1965)
11/1964-03/1966
Chức vụ cuối cùng: Đại biểu chính phủ tại Trung phần (1965-1966)
8
Nguyễn Văn Chuân
Võ bị Quốc gia
Huế Khóa 1
Thiếu tướng
(1965)
03/1966-04/1966
Chức vụ cuối cùng: Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-1973.
9
Tôn Thất Đính
Võ bị quốc gia
Huế Khóa 1
Trung tướng
(1963)
04/1966-05/1966
Chức vụ cuối cùng: Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-1973.
10
Huỳnh Văn Cao
Võ bị Quốc gia
Huế Khóa 2
Thiếu tướng
(1962)
15/5/1966-30/5/1966
Chức vụ cuối cùng: Đệ Nhất Phó chủ tịch Thượng viện nhiệm kỳ 1971-1975.
11
Hoàng Xuân Lãm
Võ bị Quốc gia
Đà Lạt Khóa 3
Thiếu tướng
(1965)
Trung tướng
(1967)
06/1966-05/1972
Chức vụ cuối cùng: Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng (1972-1975).
12
Ngô Quang Trưởng
Sĩ quan Trừ bị
Thủ Đức Khóa 4
Trung tướng
(1972)
05/1972-04/1975
Tư lệnh cuối cùng.


 

Quân Đoàn II Quân Khu II                     Flag_of_the_ARVN_II_Corps.svg

Quân đoàn II là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải – Lục – Không quân. Đây là Quân đoàn thành lập thứ nhì và là một trong bốn Quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong thời gian tồn tại của mình, Quân đoàn II có nhiệm vụ kiểm soát một vùng lãnh thổ có diện tích rộng lớn và địa hình phức tạp nhất so với 3 quân đoàn bạn, gồm 7 tỉnh thuộc khu vực cao nguyên Trung phần: Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức và Lâm Đồng; 5 tỉnh thuộc vùng duyên hải nam Trung phần: Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và Đặc khu Cam Ranh. Đặc biệt, vùng cao nguyên là đầu cầu của tuyến đường Trường Sơn, tuyến tiếp vận chiến lược của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho những người Cộng sản miền Nam, vì vậy hầu hết trận đánh lớn giữa lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với quân đội Mỹ và đồng minh diễn ra trên địa bàn của Quân đoàn II. Ngày 10 tháng 3 năm 1975, Quân đội Nhân dân và Quân giải phóng nổ súng tấn công thị xã Buôn Ma Thuột, mở đầu Chiến dịch Tây Nguyên. Trước sức ép của đối phương, cùng với cuộc triệt thoái thảm họa trên đường số 7, chỉ trong 10 ngày, 75% lực lượng của Quân đoàn II hoàn toàn tan vỡ[1], không còn thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó nữa.[2]
Tiền thân của Vùng II chiến thuật là Đệ tứ Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[3], là 1 trong 4 quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ tứ Quân khu ban đầu chỉ tương ứng với phần Cao nguyên Trung phần Việt Nam (bấy giờ gọi là Cao nguyên miền Nam). Năm 1954, địa bàn các Quân khu được điều chỉnh lại, trong đó Đệ tứ Quân khu được mở rộng thêm phần lãnh thổ Trung Việt kể từ ranh giới phía bắc tỉnh Quảng Ngãi trở xuống.[4]

Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu[5]. Địa bàn của Đệ tứ Quân khu cũ được tách thành 2 quân khu mới là Đệ tam Quân khu (phụ trách các tỉnh Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên) và Đệ tứ Quân khu mới (gồm các tỉnh nam Cao nguyên Trung phần và phía nam Duyên hải Trung phần). Tư lệnh đầu tiên của Đệ tam Quân khu là Đại tá Đỗ Cao Trí và Tư lệnh đầu tiên của Đệ tứ Quân khu là Đại tá Trần Ngọc Tám.

Quân đoàn II được thành lập vào ngày 1 tháng 10 năm 1957 tại Thị xã Ban Mê Thuột, với nòng cốt ban đầu gồm Sư đoàn 14 và Sư đoàn 15 Khinh chiến, do Thiếu tướng Trần Ngọc Tám làm Tư lệnh đầu tiên. Địa bàn kiểm soát của Quân đoàn II bao gồm cả địa bàn của cả Đệ tam và Đệ tứ Quân khu.

Cuối năm 1961, các quân khu được cải tổ thành các vùng chiến thuật (trừ Quân khu Thủ đô đổi thành Biệt khu Thủ đô)[6]. Đệ tam và Đệ tứ Quân khu được sát nhập và cải tổ thành Vùng 2 chiến thuật, từ đó có danh hiệu liên hợp Quân đoàn II và Vùng 2 chiến thuật. Địa bàn của Vùng 2 được tổ chức thành các khu chiến thuật: Khu 22 chiến thuật (gồm các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên) và Khu 23 chiến thuật (gồm các tỉnh Đắc Lắc, Tuyên Đức, Quảng Đức, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Bình Thuận và Ninh Thuận và Đặc khu Cam Ranh). Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, chỉ huy các Tiểu đoàn Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số của một Sư đoàn nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn. Tháng 10 năm 1962, Bộ Tư lệnh Quân đoàn di chuyển lên Pleiku và đóng sở chỉ huy tại đây cho đến 1975.

Sau, 2 tỉnh Kontum và Pleiku được đặt thuộc Biệt khu 24.
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn II vào đầu năm 1975.

Bộ Tư lệnh

Bộ Tham mưu
Sở An ninh Quân đội
Phòng Tổng Quản trị
Phòng 2 Tình báo
Phòng 3 Tác chiến
Bộ chỉ huy Tiếp vận

Đơn vị tác chiến trực thuộc

Sư đoàn 22 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Kontum, phụ trách các tỉnh Kontum, Pleiku, Phú Bổn, Bình Định và Phú Yên
Sư đoàn 23 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Ban Mê Thuột, Darlac, phụ trách các tỉnh Darlac, Quảng Đức, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Ninh Thuận và Đặc khu Cam Ranh

Đơn vị tác chiến phối thuộc

Hải khu 2 (còn gọi là Hải quân Vùng 2 Duyên hải): Bộ Tư lệnh đặt tại Cầu Đá, Thị xã Nha Trang
Sư đoàn 2 Không quân: Bộ tư lệnh đặt tại phi trường Nha Trang
Sư đoàn 6 Không quân: Bộ tư lệnh đặt tại phi trường Pleiku
Lực lượng Biệt động quân (gồm các Liên đoàn 21, 22, 23, 24, 25)
Lữ đoàn 2 Kỵ binh

Tiểu khu, Đặc khu trực thuộc

Tiểu khu Kontum: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Kontum. Gồm các Chi khu (Quận): Chương Nghĩa, Daksut, Dakto và Yếu khu Thị xã Kontum
Tiểu khu Pleiku: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Pleiku. Gồm các Chi khu (Quận): Lệ Trung, Phú Nhơn, Thanh An, Thuận Đức và Yếu khu Thị xã Pleiku
Tiểu khu Phú Bổn: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Hậu Bổn (Cheoreo). Gồm các Chi khu (Quận): Phú Thiện, Phú Túc, Thuần Mẫn và Yếu khu Thị xã Hậu Bổn
Tiểu khu Darlac: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Ban Mê Thuột. Gồm các Chi khu (Quận): Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Lạc Thiện, Phước An và Yếu khu Thị xã Ban Mê Thuột
Tiểu khu Quảng Đức: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Gia Nghĩa. Gồm các Chi khu (Quận): Đức Lập, Đức Xuyên, Khiêm Đức, Kiến Đức và Yếu khu Thị xã Gia Nghĩa
Tiểu khu Tuyên Đức: Bộ chỉ huy đặt tại Thị trấn Đức Trọng. Gồm các Chi khu (Quận): Đơn Dương, Đức Trọng, Lạc Dương và Yếu khu Thị xã Đà Lạt (Gồm 1 quận)
Tiểu khu Lâm Đồng: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Bảo Lộc. Gồm các Chi khu (Quận): Bảo Lộc, Di Linh và Yếu khu Thị xã Bảo Lộc
Tiểu khu Bình Định: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Quy Nhơn. Gồm các Chi khu (Quận): An Khê, An Lão, An Nhơn, Bình Khê, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh và Yếu khu Thị xã Quy Nhơn (Gồm 2 quận: Nhơn Bình và Nhơn Định)
Tiểu khu Phú Yên: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Tuy Hòa. Gồm các Chi khu (Quận): Đồng Xuân, Hiếu Xương, Phú Đức, Sông Cầu, Sơn Hoà, Tuy An, Tuy Hoà và Yếu khu Thị xã Tuy Hòa
Tiểu khu Khánh Hòa: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Nha Trang. Gồm các Chi khu (Quận): Cam Lâm, Diên Khánh, Khánh Dương, Ninh Hòa, Vạn Ninh, Vĩnh Xương và Yếu khu Thị xã Nha Trang (Gồm 2 quận: 1 và 2)
Tiểu khu Ninh Thuận: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phan Rang. Gồm các Chi khu (Quận): An Phước, Bửu Sơn, Du Long, Sông Pha, Thanh Hải và Yếu khu Thị xã Phan Rang
Tiểu khu Bình Thuận: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phan Thiết. Gồm các Chi khu (Quận): Hải Long, Hải Ninh, Hàm Thuận, Hòa Đa, Phan Lý Chàm, Thiện Giáo, Tuy Phong và Yếu khu Thị xã Phan Thiết
Đặc khu Cam Ranh: Bộ chỉ huy đặt tại Thị trấn Ba Ngòi (Cam Ranh). Phụ trách Yếu khu Thị xã Cam Ranh (Gồm 2 quận: Bắc và Nam)
Các đời Tư lệnh
TT Họ tên Cấp bậc tại nhiệm Thời gian tại chức Chú thích
1
Trần Ngọc Tám
Đại tá
(1956)
Thiếu tướng
(2/1958)
10/1957-8/1958
Tư lệnh đầu tiên. Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan
2
Tôn Thất Đính
Thiếu tướng
(1958)
8/1958-12/1962
Chức vụ sau cùng: Thượng nghị sĩ nhiệm kỳ 1967-1973.
3
Nguyễn Khánh
Thiếu tướng
(1960)
12/1962-12/1963
Chức vụ sau cùng: Quốc trưởng Việt Nam Cộng hòa (1964)
4
Đỗ Cao Trí
Trung tướng
(1963)
12/1963-9/1964
Tư lệnh Quân đoàn III kiêm Tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tử nạn trực thăng năm 1971, được truy thăng Đại tướng
5
Nguyễn Hữu Có
Thiếu tướng
(1963)
9/1964-6/1965
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng (1975)
6
Vĩnh Lộc
Thiếu tướng
(1965)
Trung tướng
(1966)
6/1965-2/1968
Chức vụ sau cùng: Tổng tham mưu trưởng (1975)
7
Lữ Lan
Thiếu tướng
(1965)
Trung tướng
(1969)
2/1968-8/1970
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng Trường Cao đẳng Quốc phòng
8
Ngô Du
Thiếu tướng
(1964)
Trung tướng
(11/1970)
8/1970-5/1972
Chức vụ sau cùng: Trưởng đoàn Việt Nam Cộng hòa tại Phái đoàn Quân sự 4 bên(1973-1974)
9
Nguyễn Văn Toàn
Thiếu tướng
(1970)
Trung tướng
(3/1974)
5/1972-11/1974
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng Thiết giáp (1974-1975), kiêm Tư lệnh Quân đoàn III & Quân khu 3 (1975)
10
Phạm Văn Phú
Thiếu tướng
(1971)
11/1974-3/1975
Tư lệnh cuối cùng. Tự sát ngày 29 tháng 4 năm 1975.


Quân Đoàn III Quân Khu III                            Flag_of_the_ARVN_III_Corps.svg

Quân đoàn III là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải – Lục – Không quân, là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là Quân đoàn có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm các tỉnh xung quanh Đô thành Sài Gòn, vì vậy giữ vai trò hết sức trọng yếu đối với chính thể Việt Nam Cộng hòa. Cuối tháng 4 năm 1975, sau khi vô hiệu hoá phòng tuyến Xuân Lộc, lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thực hiện chiến dịch lớn cuối cùng, đánh tan những lực lượng cuối cùng của Quân đoàn III phòng thủ Sài Gòn, kết thúc cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Hình thành

Tiền thân của Vùng III chiến thuật là Đệ nhất Quân khu, được thành lập ngày 1 tháng 7 năm 1952[1], là một trong 4 Quân khu của Quân đội Quốc gia Việt Nam. Vùng kiểm soát của Đệ nhất Quân khu, tương ứng với vùng Nam phần Việt Nam, từ Bình Thuận vào đến Cà Mau. Tư lệnh đầu tiên là Đại tá Lê Văn Tỵ. Địa bàn Đệ nhất Quân khu gần như được giữ nguyên trong cuộc điều chỉnh năm 1954.[2]

Sau khi chính thể Việt Nam Cộng hòa chính thức thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956, toàn bộ lãnh thổ Nam Việt Nam do Việt Nam Cộng hòa kiểm soát được chia thành 6 Quân khu: Đệ nhất Quân khu (Đông Nam phần), Đệ nhị Quân khu (Trung phần), Đệ tam Quân khu (Kontum, Pleiku, Bình Định, Phú Yên), Đệ tứ Quân khu (nam Cao nguyên Trung phần và phía nam Duyên hải Trung phần), Đệ ngũ Quân khu (Tây Nam phần) và Quân khu Thủ đô (Sài Gòn, Gia Định, Long An). Địa bàn của Đệ nhất Quân khu cũ được tách làm 3 phần gồm Đệ nhất Quân khu mới (gồm các tỉnh Gia Định, Phước Long, Bình Tuy, Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh, Phước Tuy, Long Khánh, Bình Long), Đệ ngũ Quân khu (gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên, Đặc khu Côn Sơn, Quân khu Thủ đô (Sài Gòn).[3] Tuy nhiên, mãi đến ngày 14 tháng 2 năm 1957, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa mới ký Công vụ lệnh số 146/TTM/VP chỉ định Chỉ huy trưởng 3 Quân khu kể trên, gồm: Trung tướng Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng Quân khu Thủ đô; Đại tá Nguyễn Văn Y, Chỉ huy trưởng Đệ nhất Quân khu; Đại tá Nguyễn Văn Là, Chỉ huy trưởng Đệ ngũ Quân khu. Trung tướng Dương Văn Minh đồng thời kiêm nhiệm chức Tư lệnh 3 quân khu trên.[4]

Bộ tư lệnh Quân đoàn III được thành lập lâm thời vào ngày 1 tháng 3 năm 1959 tại Biên Hòa do Trung tướng Thái Quang Hoàng làm Tư lệnh đầu tiên, giữa tháng 4 kiêm Tư lệnh Quân khu Thủ đô, thay tướng Dương Văn Minh chuyển sang làm Tổng thư ký Thường trực Quốc phòng. Mãi hơn một năm sau, Quân đoàn mới chính thức thành lập vào ngày 20 tháng 5 năm 1960, với nòng cốt là Sư đoàn 5, Sư đoàn 7, và Sư đoàn 21 Bộ binh.

Ngày 1 tháng 6 năm 1961, Tổng thống Diệm đã ra sắc lệnh cải tổ các Quân khu thành các Vùng chiến thuật, theo đó Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu được sát nhập để thành lập Vùng 3 chiến thuật[5]. Quân khu Thủ đô được đổi thành Biệt khu Thủ đô, mở rộng địa bàn thêm tỉnh Gia Định, trực thuộc Vùng 3 chiến thuật. Tỉnh Côn Sơn được tách ra, trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân.[6] Từ đó Quân đoàn có danh hiệu liên hợp Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật.

Địa bàn của Vùng 3 được tổ chức thành các Khu chiến thuật:

Khu chiến thuật Đông: gồm các tỉnh Biên Hòa, Phước Tuy, Bình Tuy, Long Khánh, Phước Long, Bình Long, Bình Dương, Tây Ninh, Phước Thành.
Khu chiến thuật Tiền Giang: gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa.
Khu chiến thuật Hậu Giang: gồm các tỉnh Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên.

Mỗi khu chiến thuật là địa bàn hoạt động của một Sư đoàn. Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, chỉ huy các Tiểu đoàn Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số của một Sư đoàn nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các Sư đoàn bộ binh. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.

Lãnh thổ của Vùng 3 chiến thuật khi đó tương ứng với địa bàn rộng lớn của Nam Bộ, gây ra rất nhiều khó khăn trong kiểm soát địa bàn. Do nhu cầu cần có thêm các đơn vị chủ lực nữa để hỗ trợ và chia sẻ vùng hoạt động, Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định thành lập thêm Sư đoàn 9 (ngày 1 tháng 1 năm 1962) và Sư đoàn 25 Bộ binh (ngày 1 tháng 7 năm 1962). Ngày 1 tháng 1 năm 1963, khi Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật được thành lập từ phần lãnh thổ miền Tây Nam phần, với nòng cốt là các sư đoàn 7, 9 và 21. Phần lãnh thổ trách nhiệm của Quân đoàn III và Vùng 3 chiến thuật chỉ còn 11 tỉnh và một Đặc khu thuộc miền Đông Nam phần, tổ chức thành 3 Khu chiến thuật: Khu chiến thuật 31 (gồm các tỉnh Tây Ninh, Hậu Nghĩa, Long An), Khu chiến thuật 32 (gồm các tỉnh Bình Long, Phước Long, Bình Dương) và Khu chiến thuật 33 (gồm các tỉnh Long Khánh, Bình Tuy, Phước Tuy, Biên Hòa, Biệt khu Thủ đô).
Đảo chính và chống đảo chính

Do vai trò hết sức quan trọng, bảo vệ đầu não chính quyền Việt Nam Cộng hòa, nên Quân đoàn được xem như cái chốt quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của các cuộc đảo chính. Vì vậy, khi cuộc đảo chính 1960 nổ ra, các chỉ huy quân đảo chính lập tức bắt giữ tướng Thái Quang Hoàng, vô hiệu hóa Bộ tư lệnh Quân đoàn và Quân khu Thủ đô. Dù sau đó, các lực lượng dưới quyền Quân đoàn đã tự động tổ chức phản kích và đánh bại quân đảo chính, Tổng thống Diệm vẫn cáo buộc tướng Thái Quang Hoàng không đủ năng lực để phản ứng với cuộc đảo chính, vì thế đã điều chuyển ông sang giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Đại học Quân sự và kiêm Quân trấn trưởng Đà Lạt.
Mậu Thân 1968

Xem thêm: Sự kiện Tết Mậu Thân

Ngày 1-7-1970, Vùng 3 được cải danh thành Quân khu 3.
Mùa hè đỏ lửa

Xem thêm: Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972, Trận Lộc Ninh (1972), Trận An Lộc, và Chiến dịch Nguyễn Huệ

Mở đầu và kết thúc của thất bại cuối cùng

Xem thêm: Chiến dịch Đường 14 – Phước Long, Chiến dịch Phan Rang – Xuân Lộc, Trận Xuân Lộc, Chiến dịch Hồ Chí Minh, và Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975

Biên chế tổ chức

Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn III vào đầu năm 1975.

Bộ Tư lệnh

Bộ Tham mưu
Sở An ninh Quân đội
Phòng 1 Tổng Quản trị
Phòng 2 Tình báo
Phòng 3 Tác chiến
Bộ chỉ huy Tiếp vận
Bộ chỉ huy Pháo binh

Đơn vị tác chiến trực thuộc

Sư đoàn 5 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Lai Khê, Bến Cát, phụ trách các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long
Sư đoàn 18 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Xuân Lộc, Long Khánh, phụ trách các tỉnh Biên Hòa, Bình Tuy, Gia Định, Long Khánh, Phước Tuy và Đặc khu Vũng Tàu
Sư đoàn 25 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Đồng Dù, Củ Chi, phụ trách các tỉnh Hậu Nghĩa, Long An và Tây Ninh

Đơn vị tác chiến phối thuộc

Hải khu 3 (còn gọi là Hải quân Vùng 3 Duyên hải): Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Vũng Tàu
Vùng 3 Sông ngòi: Bộ tư lệnh đặt tại căn cứ Long Bình, Biên Hòa
Sư đoàn 3 Không quân: Bộ Tư lệnh đặt tại Phi trường Biên Hòa
Sư đoàn 5 Không quân: Bộ Tư lệnh đặt tại Phi trường Tân Sơn Nhất
Lực lượng Biệt động quân (gồm các Liên đoàn 31, 32, 33)
Lữ đoàn 3 Kỵ binh

Tiểu khu, Đặc khu trực thuộc

Tiểu khu Biên Hòa: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Biên Hòa. Gồm các Chi khu (Quận): Công Thanh, Dĩ An, Đức Tu, Long Thành, Nhơn Trạch, Tân Uyên và Yếu khu Thị xã Biên Hòa
Tiểu khu Bình Dương: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phú Cường. Gồm các Chi khu (Quận): Bến Cát, Châu Thành, Lái Thiêu, Phú Hòa, Phú Giáo, Trị Tâm và Yếu khu Thị xã Phú Cường
Tiểu khu Bình Long: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã An Lộc. Gồm các Chi khu (Quận): An Lộc, Chơn Thành, Lộc Ninh và Yếu khu Thị xã An Lộc
Tiểu khu Bình Tuy: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Hàm Tân. Gồm các Chi khu (Quận): Hàm Tân, Hoài Đức, Tánh Linh và Yếu khu Thị xã Hàm Tân
Tiểu khu Gia Định: Bộ chỉ huy đặt ở một vị trí trong xã Bình Hòa thuộc Quận Gò Vấp (vị trí này nay là trung tâm quận Bình Thạnh). Gồm các Chi khu (Quận): Bình Chánh, Cần Giờ, Gò Vấp, Hốc Môn, Nhà Bè, Quảng Xuyên, Tân Bình, Thủ Đức và Yếu khu Thị xã Gia Định
Tiểu khu Hậu Nghĩa: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Khiêm Cường. Gồm các Chi khu (Quận): Củ Chi, Đức Hòa, Đức Huệ, Trảng Bàng và Yếu khu Thị xã Khiêm Cường
Tiểu khu Long An: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Tân An. Gồm các Chi khu (Quận): Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Rạch Kiến, Tân Trụ, Thủ Thừa và Yếu khu Thị xã Tân An
Tiểu khu Long Khánh: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Xuân Lộc. Gồm các Chi khu (Quận): Định Quán, kiệm Tân, Xuân Lộc và Yếu khu Thị xã Xuân Lộc
Tiểu khu Phước Long: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phước Bình. Gồm các Chi khu (Quận): Bố Đức, Đôn Luân, Đức Phong, Phước Bình và Yếu khu Thị xã Phước Bình
Tiểu khu Phước Tuy: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phước Lễ. Gồm các Chi khu (Quận): Đất Đỏ, Đức Thạnh, Long Điền, Long Lễ, Xuyên Mộc và Yếu khu Thị xã Phước Lễ
Tiểu khu Tây Ninh: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Tây Ninh. Gồm các Chi khu (Quận): Hiếu Thiện, Khiêm Hạnh, Phú Khương, Phú Ninh và Yếu khu Thị xã Tây Ninh
Đặc khu Vũng Tàu: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Vũng Tàu. Phụ trách Yếu khu Thị xã Vũng Tàu (Gồm 1 quận)
Các đời Tư lệnh
TT Họ tên Cấp bậc tại nhiệm Thời gian tại chức Chú thích
1
Thái Quang Hoàng
Trung tướng
3/1959-10/1959
Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan (1965)
2
Nguyễn Ngọc Lễ
Trung tướng
(1956)
10/1959-5/1961
Chức vụ sau cùng: Chánh thẩm Tòa án Quân sự Mặt trận Sài Gòn (1964)
3
Lê Văn Nghiêm
Thiếu tướng
(1955)
5/1961-12/1962
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Giám đốc Nha Động viên Bộ Quốc phòng (1965)
4
Tôn Thất Đính
Thiếu tướng
(1958)
Trung tướng
(1963)
12/1962-1/1964
Chức vụ sau cùng: Thượng nghị sĩ (1967-1975)
5
Trần Thiện Khiêm
Trung tướng
(1963)
1/1964-2/1964
Chức vụ sau cùng: Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa (1969-1975)
6
Lâm Văn Phát
Thiếu tướng
(1963)
2/1964-4/1964
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô (1975)
7
Trần Ngọc Tám
Thiếu tướng
(1958)
Trung tướng
(4/1964)
4/1964-10/1964
Chức vụ sau cùng: Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Thái Lan (1972-1974)
8
Cao Văn Viên
Thiếu tướng
(3/1964)
10/1964-10/1965
Chức vụ sau cùng: Đại tướng (1967), Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa (1965-1975)
9
Nguyễn Bảo Trị
Thiếu tướng
10/1965-6/1966
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn
10
Lê Nguyên Khang
Thiếu tướng
(1965)
6/1966-8/1968
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Tổng tham mưu trưởng, đặc trách hành quân
11
Đỗ Cao Trí
Trung tướng
(1963)
8/1968-2/1971
Tử nạn trực thăng ngày 23/2/1971. Được truy thăng Đại tướng
12
Nguyễn Văn Minh
Thiếu tướng
(1968)
Trung tướng
(1972)
2/1971-10/1973
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh Biệt khu Thủ đô
13
Phạm Quốc Thuần
Trung tướng
(1971)
10/1973-19/1974
Chức vụ sau cùng: Chỉ huy trưởng trường Hạ sĩ quan Đồng Đế
14
Dư Quốc Đống
Trung tướng
(1970)
10/1974-1/1975
Chức vụ sau cùng: Phụ tá Tổng tham mưu trưởng
15
Nguyễn Văn Toàn
Trung tướng
(1974)
1/1975-30/4/1975
Tư lệnh cuối cùng
Chú thích
^ Sắc lệnh số 61-QP của Quốc trưởng Bảo Đại ngày 26 tháng 6 năm 1952
^ Sắc lệnh số 19-QP của Quốc trưởng Bảo Đại ngày 19 tháng 3 năm 1954
^ Sắc lệnh số 147/b/QP ngày 24 tháng 10 năm 1956
^ Tài liệu Tham mưu biệt bộ Phủ tổng thống. Trung tâm lưu trữ quốc gia II TP Hồ Chí Minh.
^ Sắc lệnh số SL.98/QP ngày 13 tháng 4 năm 1961
^ Sự thay đổi địa giới hành chính và quân sự của chính quyền Sài Gòn giai đoạn 1955-1963 tại Bà Rịa-Vũng Tàu


Quân Đoàn IV Quân Khu IV

Quân đoàn IV là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải – Lục – Không quân, là một trong bốn quân đoàn chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và là Quân đoàn được thành lập sau cùng. Đây là Quân đoàn có nhiệm vụ kiểm soát địa bàn gồm các tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Vào giai đoạn cuối tháng 4 năm 1975, khi các Quân đoàn bạn đã bị tan ra hoặc không còn sức chiến đấu thì lực lượng của Quân đoàn IV gần như vẫn còn nguyên vẹn và chỉ buông súng khi có lệnh đầu hàng từ Tổng thống Dương Văn Minh. Một số sĩ quan cao cấp của quân đoàn đã tự sát để không phải chấp hành lệnh đầu hàng, trong đó có cả Tư lệnh và Tư lệnh phó Quân đoàn.           Flag_of_the_ARVN_IV_Corps.svg
Hình thành

Tiền thân của Vùng IV chiến thuật là Đệ ngũ Quân khu, được thành lập ngày 26 tháng 10 năm 1956[1]. Địa bàn của Đệ ngũ Quân khu bấy giờ gồm các tỉnh Long An, Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, An Giang, Phong Dinh, Ba Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên và Đặc khu Côn Sơn. Tuy nhiên, mãi đến ngày 14 tháng 2 năm 1957, Đại tướng Lê Văn Tỵ, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Việt Nam Cộng hòa mới ký Công vụ lệnh số 146/TTM/VP chỉ định Chỉ huy trưởng 3 quân khu kể trên, gồm: Trung tướng Dương Văn Minh, Chỉ huy trưởng Quân khu Thủ đô; Đại tá Nguyễn Văn Y, Chỉ huy trưởng Đệ nhất quân khu; Đại tá Nguyễn Văn Là, Chỉ huy trưởng Đệ ngũ quân khu. Trung tướng Dương Văn Minh đồng thời kiêm nhiệm chức Tư lệnh 3 quân khu trên.[2]

Ngày 1 tháng 6 năm 1961, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã ra sắc lệnh cải tổ các Quân khu thành các Vùng chiến thuật, theo đó Đệ nhất và Đệ ngũ Quân khu được sát nhập để thành lập Vùng 3 chiến thuật[3]. Tỉnh Côn Sơn được tách ra, trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân.[4]. Tuy nhiên, do lãnh thổ của Vùng 3 chiến thuật khi đó tương ứng với địa bàn rộng lớn của Nam Bộ, gây ra rất nhiều khó khăn trong kiểm soát địa bàn. Do nhu cầu cần có thêm các đơn vị chủ lực nữa để hỗ trợ và chia sẻ vùng hoạt động, Tổng thống Ngô Đình Diệm quyết định thành lập thêm Sư đoàn 9 (ngày 1 tháng 1 năm 1962) và Sư đoàn 25 Bộ binh (ngày 1 tháng 7 năm 1962). Như vậy, trên địa bàn của Đệ ngũ Quân khu cũ có các Sư đoàn bộ binh: Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 và Sư đoàn 21 phụ trách.

Ngày 1 tháng 1 năm 1963, Tổng thống Diệm cho thành lập Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật từ phần lãnh thổ miền Tây Nam phần, với nòng cốt là các sư đoàn 7, 9 và 21. Đại bản doanh của Quân đoàn được đặt tại Cần Thơ và Thiếu tướng Huỳnh Văn Cao làm Tư lệnh đầu tiên. Phần lãnh thổ trách nhiệm của Quân đoàn IV và Vùng 4 chiến thuật gồm 16 tỉnh và một Đặc khu thuộc miền tây Nam phần, tổ chức thành 3 Khu chiến thuật: Khu chiến thuật 41 (gồm các tỉnh Châu Đốc, An Giang, Sa Đéc, Vĩnh Long, Vĩnh Bình); Khu chiến thuật 42 (gồm các tỉnh Kiên Giang, Phong Dinh, Chương Thiện, Ba Xuyên, Bạc Liêu, An Xuyên); Khu chiến thuật 43 (gồm các tỉnh Định Tường, Kiến Tường, Kiến Phong, Kiến Hòa, Gò Công). Ngoài ra, còn có Khu chiến thuật đặc biệt bán tự trị 44 làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh khu vực tây bắc đồng bằng sông Cửu Long dọc biên giới Việt Nam-Campuchia (giải thể năm 1973). Riêng Đặc khu Phú Quốc trực thuộc vào Bộ Tư lệnh Hải quân. Mỗi khu chiến thuật là địa bàn hoạt động của một Sư đoàn. Các tỉnh cũng được tổ chức về mặt quân sự thành các Tiểu khu chiến thuật, đứng đầu là một sĩ quan cấp Đại tá hoặc Trung tá với chức danh Tỉnh trưởng (hoặc Thị trưởng) kiêm Tiểu khu trưởng, chỉ huy các Tiểu đoàn Địa phương quân và các Chi khu (trong đó có các Trung đội Nghĩa quân). Quân số của mỗi Tiểu khu tương đương với quân số của một Sư đoàn nhưng về mặt trang bị không bằng các đơn vị chủ lực. Vì vậy khi cần thiết sẽ được sự hỗ trợ của các sư đoàn chủ lực. Do đó, khi phối hợp tác chiến Tiểu khu trưởng dưới quyền của Tư lệnh Sư đoàn.
Trận Ấp Bắc

Bài chi tiết: Trận Ấp Bắc

Những mùa đảo chính
Mậu Thân 1968
Xem thêm: Sự kiện Tết Mậu Thân

Ngày 1-7-1970, Vùng 4 được cải danh thành Quân khu 4.
Biên chế tổ chức
Dưới đây là biên chế tổ chức của Quân đoàn III vào đầu năm 1975.

Bộ Tư lệnh
Bộ Tham mưu
Sở An ninh Quân đội
Phòng 1 Tổng Quản trị
Phòng 2 Tình báo
Phòng 3 Tác chiến
Bộ chỉ huy Tiếp vận
Bộ chỉ huy Pháo binh
Bộ tư lệnh Chiến đoàn đặc nhiệm

Đơn vị tác chiến trực thuộc

Sư đoàn 7 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại căn cứ Đồng Tâm Mỹ Tho, phụ trách các tỉnh Định Tường, Gò Công, Kiến Hòa, Kiến Tường và Sa Đéc
Sư đoàn 9 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại Vĩnh Long, phụ trách các tỉnh An Giang, Châu Đốc, Kiến Phong, Vĩnh Bình và Vĩnh Long
Sư đoàn 21 Bộ binh: Bộ Tư lệnh đặt tại Chương Thiện, phụ trách các tỉnh An Xuyên, Ba Xuyên, Bạc Liêu, Chương Thiện, Kiên Giang và Phong Dinh

Đơn vị tác chiến phối thuộc
Hải khu 4 (còn gọi là Hải quân Vùng 4 Duyên hải): Bộ Tư lệnh đặt tại Thị xã Cần Thơ
Hải khu 5 (còn gọi là Hải quân Vùng 5 Duyên hải): Bộ Tư lệnh đặt tại Năm Căn, tỉnh An Xuyên
Vùng 4 Sông ngòi: Bộ tư lệnh đặt tại Thị xã Cần Thơ
Sư đoàn 4 Không quân: Bộ Tư lệnh đặt tại Phi trường Bình Thủy, Cần Thơ
Lữ đoàn 4 Kỵ binh
Tiểu khu, Đặc khu trực thuộc
Tiểu khu An Giang: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Long Xuyên. Gồm các Chi khu (Quận): Châu Thành, Chợ Mới, Huệ Đức, Thốt Nốt và Yếu khu Thị xã Long Xuyên
Tiểu khu An Xuyên: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Quản Long. Gồm các Chi khu (Quận): Đầm Dơi, Hải Yến, Năm Căn, Sông Đốc, Thới Bình và Yếu khu Thị xã Quản Long
Tiểu khu Ba Xuyên: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Khánh Hưng. Gồm các Chi khu (Quận): Hòa Trị, Kế Sách, Lịch Hội, Long Phú, Mỹ Xuyên, Ngã Năm, Thạnh Trị, Thuận Hòa và Yếu khu Thị xã Khánh Hưng
Tiểu khu Bạc Liêu: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Bạc Liêu. Gồm các Chi khu (Quận): Giá Rai, Phước Long, Vĩnh Châu, Vĩnh Hội và Yếu khu Thị xã Bạc Liêu
Tiểu khu Châu Đốc: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Châu Đốc. Gồm các Chi khu (Quận): An Phú, Châu Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn và Yếu khu Thị xã Châu Đốc
Tiểu khu Chương Thiện: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Vị Thanh. Gồm các Chi khu (Quận): Đức Long, Hưng Long, Kiên Long, Kiên Lương, Kiến Thiện, Long Mỹ và Yếu khu Thị xã Vị Thanh
Tiểu khu Định Tường: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Mỹ Tho. Gồm các Chi khu (Quận): Bến Tranh, Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành, Chợ Gạo, Giáo Đức, Hậu Mỹ, Sầm Giang và Yếu khu Thị xã Mỹ Tho (Gồm 1 Quận)
Tiểu khu Gò Công: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Gò Công. Gồm các Chi khu (Quận): Hòa Bình, Hòa Đồng, Hòa Lạc, Hòa Tân và Yếu khu Thị xã Gò Công
Tiểu khu Kiên Giang: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Rạch Giá. Gồm các Chi khu (Quận): Hà Tiên, Hiếu Lê, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Lương, Kiên Tân, Kiên Thành và Yếu khu Thị xã Rạch Giá (Gồm 1 Quận)
Tiểu khu Kiến Hòa: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Trúc Giang. Gồm các Chi khu (Quận): Ba Tri, Bình Đại, Đôn Nhơn, Hàm Luông, Hương Mỹ, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú và Yếu khu Thị xã Trúc Giang
Tiểu khu Kiến Phong: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Cao Lãnh. Gồm các Chi khu (Quận): Cao Lãnh, Đồng Tiến, Hồng Ngự, Kiến Văn, Mỹ An, Thanh Bình và Yếu khu Thị xã Cao Lãnh
Tiểu khu Kiến Tường: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Mộc Hóa. Gồm các Chi khu (Quận): Châu Thành, Kiên Bình, Tuyên Bình, Tuyên Nhơn và Yếu khu Thị xã Mộc Hóa
Tiểu khu Phong Dinh: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Cần Thơ. Gồm các Chi khu (Quận): Châu Thành, Phong Điền, Phong Phú, Phong Thuận, Phụng Hiệp, Thuận Nhơn, Thuận Trung và Yếu khu Thị xã Cần Thơ (Gồm 1 Quận)
Tiểu khu Sa Đéc: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Sa Đéc. Gồm các Chi khu (Quận): Đức Thành, Đức Thịnh, Đức Tôn, Lấp Vò và Yếu khu Thị xã Sa Đéc
Tiểu khu Vĩnh Bình: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Phú Vinh. Gồm các Chi khu (Quận): Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Long Toàn, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm và Yếu khu Thị xã Phú Vinh
Tiểu khu Vĩnh Long: Bộ chỉ huy đặt tại Thị xã Vĩnh Long. Gồm các Chi khu (Quận): Bình Minh, Châu Thành, Chợ Lách, Minh Đức, Tam Bình và Yếu khu Thị xã Vĩnh Long
Đặc khu Phú Quốc
Các đời tư lệnh
TT Họ tên Cấp bậc tại nhiệm Thời gian tại chức Chú thích
1
Huỳnh Văn Cao
Thiếu tướng
(1962)
10/1963-11/1963
Chức vụ sau cùng: Thượng nghị sĩ (1967-1975)
2
Bùi Hữu Nhơn
Đại tá
(1958)
11/1963
(Quyền Tư lệnh 4 ngày)
Giải ngũ năm 1968 ở cấp Thiếu tướng
3
Nguyễn Hữu Có
Thiếu tướng
(1963)
11/1963-3/1964
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Tổng trưởng Quốc phòng
4
Dương Văn Đức
Thiếu tướng
(1956)
Trung tướng
1964
3/1964-9/1964
Bị cách chức và buộc giải ngũ do cầm đầu đảo chính.
5
Nguyễn Văn Thiệu
Thiếu tướng
(1963)
Trung tướng
(1965)
9/1964-11/1965
Chức vụ sau cùng: Tổng thống Việt Nam Cộng hòa (1967-1975)
6
Đặng Văn Quang
Thiếu tướng
(1964)
Trung tướng
(1965)
11/1965-11/1966
Chức vụ sau cùng: Cố vấn Tổng thống về Quân sự, Phụ tá An ninh và Tình báo Quốc gia, Tổng thư ký Hội đồng An ninh Quốc gia (1967-1975).
7
Nguyễn Văn Mạnh
Chuẩn tướng
(1965)
Thiếu tướng
(1967)
11/1966-2/1968
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tổng Tham mưu Phó Bộ Tổng tham mưu đặc trách An Ninh Phát triển và kiêm Tư lệnh Địa phương quân và nghĩa quân
8
Nguyễn Đức Thắng
Thiếu tướng
1965
Trung tướng
(1968)
2/1968-7/1968
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Phụ tá Kế hoạch Tổng Tham mưu trưởng
9
Nguyễn Viết Thanh
Thiếu tướng
(1968)
7/1968-5/1970
Tử nạn trực thăng ngày 2/5/1970. Được truy thăng Trung tướng
10
Ngô Du
Thiếu tướng
(1964)
5/1970-8/1970
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Trưởng đoàn Việt Nam Cộng hòa trong Phái đoàn Quân sự 4 bên
11
Ngô Quang Trưởng
Thiếu tướng
(1968)
8/1970-5/1972
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh Quân đoàn I và Quân khu I
12
Nguyễn Vĩnh Nghi
Thiếu tướng
(1970)
Trung tướng
(1974)
5/1972-11/1974
Chức vụ sau cùng: Trung tướng, Tư lệnh phó Quân đoàn III và Quân khu III
13
Nguyễn Khoa Nam
Thiếu tướng
(1972)
11/1974-30/4/1975
Tư lệnh cuối cùng. Tự sát ngày 30/4/1975